Xem lại phần 4: Kinh thành đẫm máu
Bắc Kinh, năm 1788.
Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đứng bên dưới, hai bên là văn võ bá quan đang xì xào bàn tán. Càn Long phương phi bệ vệ trong bộ hoàng bào thêu rồng ngồi trên ngôi cao nhìn xuống. Ông hỏi:
-Vậy ra An Nam quốc vương Lê Chiêu Thống muốn mượn binh lực Đại Thanh ta để dẹp bọn Tây Sơn gì đó à?
Tôn Sĩ Nghị tâu:
-Dạ bẩm hoàng thượng, hắn ta nói rằng Tây Sơn hoành hành bá đạo, tự ý bàn chuyện phế lập, không coi vua ra gì, xã tắc lâm nguy. Nay hết sức thiết tha mong Càn Long đại đế đoái lòng cứu giúp.
Càn Long bật cười:
-Ái Tân Giác La Hoằng Lịch ta muốn đưa quân xuống An Nam đã lâu mà chưa có cớ. Nay vua nó sang tận đây cầu xin thiên triều, thế là ta danh chính ngôn thuận còn gì?
Tôn Sĩ Nghị tâu tiếp:
- An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi!
Càn Long nghe xong gật gù cho là phải. Rồi ông đứng dậy vung tay nói lớn:
-Trẫm chuẩn y.
Bỗng bên dưới có tiếng nhao nhao phản đối. Càn Long nhìn xem ai dám to gan, thì ra là mấy đứa con ông gồm cách cách Tiểu Yến Tử, Hạ Tử Vy, hoàng tử Ngũ A Ca, phò mã Phúc Nhĩ Khang. Tất cả đều bảo hoàng a mã không nên gây chiến tranh để máu chảy thành sông nữa. Vua xua tay:
-Gọi Dung ma ma vào đưa bọn nó ra ngoài. Om sòm.
Sau khi bốn đứa đã biến khuất mắt. Ông dõng dạc tuyên bố:
-Phong cho Tôn Sĩ Nghị làm nguyên soái, chỉ huy quân đội bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, và Quý Châu chinh phạt Tây Sơn. Mọi việc đều giao cho Sĩ Nghị lo liệu. Trẫm chờ tin thắng trận.
-Tuân lệnh hoàng thượng!
Đại thần Tôn Sĩ Nghị cúi đầu vâng mệnh. Chiến dịch hành quân này của ông là một trong mười chiến dịch lớn trong đời hoàng đế Càn Long, còn gọi là thập toàn võ công.
20 vạn hùng binh Mãn Thanh chia làm 3 đường rầm rập kéo sang Đại Việt do 3 chỉ huy Ô Đại Kinh, Sầm Nghi Đống và Tôn Sĩ Nghị thống lãnh. Chẳng mấy chốc đã đến ải Nam Quan, Lê Chiêu Thống nói:
-Đã đến địa phận nước nam thưa tổng đốc.
Tôn Sĩ Nghị đáp:
-Không cần ngươi nhắc.
Rồi ông đưa mắt quan sát một lượt. Vùng biên giới hoang vu cô tịnh, chỉ có tiếng oan hồn thảm tử rú rít. Nơi đây từng là mồ chôn xác biết bao đời quân bắc quốc. Bất giác Tôn Sĩ Nghị linh cảm điều gì đó, ớn lạnh dọc sống lưng. Tuy vậy ông vẫn nói cứng:
-Tiến quân!
Tiếng vó ngựa và binh khí vang lên cũng trấn an Tôn Sĩ Nghị phần nào. Kỳ này ra đi phải hùng tráng, và trở về phải vinh quang. Ông tưởng tượng một bữa tiệc linh đình tại Bắc Kinh chào đón, Càn Long hoàng đế mời ông ly rượu khải hoàn, danh vọng tột đỉnh. Phúc Khang An đi theo lo hậu cần, tổng cộng 18 kho quân lương được dựng lên trải dài từ ải Nam Quan đến tận Thăng Long.
Quân Tây Sơn đóng tại Bắc Hà khoảng 60 ngàn, nhưng 30 ngàn là bị bắt lính nên không có tinh thần chiến đấu. Ngay khi vừa thấy khí thế quân Thanh kinh khủng quá là lập tức đầu hàng hoặc bỏ trốn. Những người trung thành cố gắng chiến đấu kịch liệt, nhưng vì ít ỏi và yếu thế nên đại bại, nhiều người bị rét cóng hay chết đuối lúc vượt sông. Quân Tây Sơn thiệt mạng gần hết, buộc phải rút lui.
Tôn Sĩ Nghị đắc thắng tiến vào Thăng Long:
-Thế quân đang mạnh, giờ ta đánh xuống Quảng Nam tiêu diệt Nguyễn Huệ!
Nhưng có người can rằng:
-Đường vào đó rất xa. Chi bằng cứ ở đây cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn Tết. Qua mùng 6 hãy khởi hành.
Sĩ Nghị đồng ý bèn ở lại miền bắc. Quân Thanh tụ tập thêm được các Hoa Kiều tại đây, chừng một vạn người đóng thành một trại. Nhóm quân này ỷ thế đi cướp phá, và hãm hiếp đàn bà con gái không kiêng sợ ai. Dù Tôn Sĩ Nghị có ra sắc lệnh nghiêm quân kỷ nhưng cũng không có tác dụng lắm.
Tình hình Bắc Hà khi ấy cực kỳ nguy ngập. Các tướng Tây Sơn họp mặt bàn nhau:
-Ngày xưa nghĩa quân Lam Sơn cũng dùng quân mai phục để đánh tan giặc Minh. Ta nên dùng lại kế ấy?
Quân sư Ngô Thì Nhậm can:
-Không đủ sức đâu. Chi bằng ta rút hết quân về núi Tam Điệp ở Ninh Bình, cách Thăng Long hơn 100 cây số. Bảo toàn lực lượng Tây Sơn còn lại ở đó rồi gửi thư về Phú Xuân báo tin cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ!
Mọi người nhất trí rồi cùng tiến hành rút quân khẩn cấp. Tình hình vô cùng bi đát, không có Nguyễn Huệ không xong. Bắt buộc phải có anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Niềm hy vọng cuối cùng...
-------
-----
---
Canh khuya, thành Phú Xuân.
Nguyễn Huệ ban ngày bận trăm công nghìn việc nên ban đêm ông mới có thời gian. Ông một mình đi đến nơi ở của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, vị quân sư khả kính mà ông đã tốn bao công sức mới mời được. Nguyễn Thiếp vốn sống thanh đạm đã quen, không ham công danh phú quý nên dù Nguyễn Huệ có xây hẳn một nơi khang trang cho ông thì Nguyễn Thiếp vẫn dựng một căn chòi nhỏ trong sân để đọc sách.
-La Sơn phu tử tiên sinh còn thức chứ?
Nguyễn Huệ cung kính đứng bên ngoài cửa chòi khẽ hỏi. Một giọng thâm trầm đáp lại:
-Xin mời.
Nguyễn Huệ đẩy cửa bước vào. Những tháng cuối năm thành Phú Xuân mưa lạnh, gió rét căm căm nhưng bên trong căn chòi vẫn ấm áp và thơm nồng mùi thảo mộc. Ánh lửa cam nhạt nhảy nhót trên vách tường soi sáng một cụ già ăn mặc giản dị. Thì ra Nguyễn Thiếp tiên sinh đang chong đèn đọc binh pháp. Tuy niên kỷ đã cao, râu tóc bạc phơ như Bụt nhưng nhìn tiên sinh vẫn khỏe khoắn, da dẻ hồng hào như hài đồng, đặc biệt đôi mắt rất sáng, chứng tỏ người có bản lãnh thông tuệ trời đất.
Mình đọc Tam Quốc luôn ấn tượng cảnh Lưu Bị khổ cực, không ngại đường xa mưa gió tuyết rơi 3 lần tới Ngọa Long Cương cầu xin Khổng Minh ra làm quân sư. Kiểu 20 mấy năm trời đánh mãi không ăn được Tào Tháo, nên giờ Lưu Bị vã quá mà phải hạ mình đi năn nỉ một thanh niên xa lạ, dù địa vị ông khi đó là chú của hoàng đế.
Xông pha gió tuyết thỉnh hiền lương
Chẳng gặp, về không luống cảm thương
Váng đóng đầu khe, bông tuyết trắng
Lạnh tê yên ngựa, quãng đường trường...
Ngang đầu tới tấp hoa lê rụng,
Lướt mặt tơi bời nhành liễu vương
Ngoảnh lại, u buồn trông cảnh sắc:
Bạc phơi trắng xóa Ngọa Long Cương...
Không biết chính sử Tàu thì việc ấy có thật không hay do La Quán Trung chém gió để tác phẩm thêm hay. Nhưng nhìn lại nước mình thì ngày xưa Nguyễn Huệ thật sự phải năn nỉ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đủ 4 lần thì ông mới chịu làm quân sư cho. Nên nhớ Nguyễn Huệ là người rất hùng hổ, thét ra lửa mửa ra khói, tiếng vang như chuông, ai tiếp xúc cũng khiếp sợ, nhưng khi ngỏ lời với Nguyễn Thiếp thì lại rất mềm mỏng tha. Thậm chí Nguyễn Ánh về sau chiến thắng, giết rất nhiều người bên phe Tây Sơn để trả thù, nhưng với La Sơn phu tử thì một mực kính trọng, hy vọng ông về làm cho mình. Nhưng ông lấy cớ già yếu từ chối, Nguyễn Ánh cũng đành nghe theo.
Mặc dù là một ẩn sĩ nhưng uy danh của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp vẫn lừng lẫy khắp toàn quốc, khiến cho trong cái thời loạn đó bao kẻ thèm muốn thì đủ biết ông bá đạo như thế nào. Ông giúp vua xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô và đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước Việt thay cho chữ Hán. Ba bí kíp giữ nước của ông cho Quang Trung đến ngày nay vẫn còn dùng được là: Quân đức, Dân tâm và Học pháp. Đại khái là vua nên sống đàng hoàng, thương yêu con dân, chăm lo cho giáo dục, tự khắc nước sẽ mạnh. Khi nhà Tây Sơn sụp đổ thì sự nghiệp của ông cũng đành dở dang. La Sơn phu tử quay về trại Bùi Phong sống ở đó những năm tháng cuối đời, mãi mãi không động đến việc trần ai nữa. Nhưng đó là chuyện về sau.
-Ta biết ngài sẽ tới, Bắc Bình Vương.
Nguyễn Thiếp cười và đặt cuốn sách lên bàn. Nguyễn Huệ ngồi xuống đối diện, thắc mắc:
-Sao tiên sinh biết?
Nguyễn Thiếp với tay lấy ấm trà, đáp:
-Cái gì mà ta chẳng biết. Ta còn biết Mãn Thanh vừa vào Thăng Long, còn Nguyễn Ánh vừa chiếm được Gia Định.
Nguyễn Huệ giật mình:
-Tiên sinh quả là thần cơ diệu toán. Nhưng ta phải làm thế nào bây giờ?
Nguyễn Thiếp chậm rãi nói:
-Thiên hạ giờ đã hình thành thế chia ba. Ngài giữ vùng đất phương bắc, anh Nhạc ngài nằm giữa trung tâm, còn phía nam là lãnh địa Nguyễn Ánh.
-Đúng là như thế. Ta muốn thống nhất thiên hạ nhưng sức người không bằng ý trời.
Nguyễn Thiếp rót cho Nguyễn Huệ một chén, hỏi:
-Ngài nuôi hải tặc phải không Bắc Bình Vương? Bọn Tàu Ô.
Nguyễn Huệ im lặng một lúc rồi đáp:
-Phải, thưa quân sư.
-Ngài làm ngơ cho bọn chúng hoành hành tác oai tác quái cả vùng biển phía nam, gây ra bao nhiêu tội ác. Ta biết ngài cần bọn chúng làm đồng minh để đánh với quân Nguyễn. Nhưng ngài bảo Nguyễn Ánh đem quân Xiêm đánh ngài là “cõng rắn cắn gà nhà”, thì ngài dùng hải tặc Trung Hoa để đánh Nguyễn Ánh nên gọi là gì?
Nguyễn Huệ không nói nữa, Nguyễn Thiếp đã bắn trúng tim đen ông. La Sơn phu tử thở dài:
-Ta hiểu. Thời loạn thì ai không mong muốn nhanh chóng hạ gục đối phương. Mọi thủ đoạn đều có thể được đem ra để triệt hạ kẻ thù.
-Tiên sinh nói đúng. Trước đây quân Tây Sơn chúng ta có thi hành một vài chính sách sai lầm khi đánh miền nam. Đã xảy ra một số vụ thảm sát và cướp bóc không đáng có. Còn hải tặc Tàu Ô này là quân bài chiến lược của hải quân Tây Sơn, và hiện tại thì chúng có lợi cho cuộc chiến của ta.
Nguyễn Huệ thừa nhận. Nguyễn Thiếp nhìn vào mắt ông:
-Ngài 4 lần kiên nhẫn mời ta làm quân sư, còn nhiều hơn ngày xưa Lưu Bị mời Gia Cát Lượng. Tấm lòng tha thiết ấy ta biết rõ. Nhưng ta xuống núi để giúp ngài làm một minh quân chứ không phải một bạo chúa. Nên hứa với ta, ngày sau đất nước thống nhất hãy giải tán ngay bọn hải tặc Tàu Ô, đừng để chúng sách nhiễu nhân dân.
Nói đoạn, Nguyễn Thiếp cầm tách trà của mình đưa lên rồi ân cần nói:
-Điều quan trọng nhất khi làm vua là nhân tâm. Cũng như tách trà này. Nếu vua là trà thì dân là nước. Nước có thể nâng trà thì cũng có thể dìm trà.
Ông lắc lắc tách trà, quả nhiên trà chìm xuống đáy. Nguyễn Huệ hiểu ra, gật đầu. La Sơn phu tử nhúng một ngón tay vào tách cho ướt rồi vẽ một hình chữ S lên bàn. Xong ông chỉ vào nửa trên chữ S.
-Tây Sơn các ngài đã lỡ làm mất nhân tâm miền nam thì quyết đừng phạm sai lầm lần nữa tại miền bắc. Xứ Đàng Ngoài 200 năm nay gần như là một vương quốc độc lập, ngài bỗng dưng đến đánh dẹp họ Trịnh thì chắc chắn nhân tâm chưa có. Trong mắt người bắc ngài chỉ là một kẻ man di mọi rợ đến phá nát hòa bình của họ. Vì vậy hãy tìm cách lấy lòng dân thì Bắc Hà mới bền vững.
Nguyễn Huệ chắp tay, khẩn khoản:
-Vậy nhờ tiên sinh chỉ ta một con đường.
Nguyễn Thiếp vuốt râu:
-Nay sẵn có quân Mãn Thanh vừa đến, Bắc Bình Vương phải đánh một trận thật dữ dội, thật oanh liệt. Dân nước nam ta xưa nay vốn e dè bắc quốc. Nếu ngài lập nên một chiến công trác tuyệt như Lê Lợi ngày xưa đánh Đại Minh thì toàn thiên hạ sẽ hướng về ngài. Sau đó Nguyễn Thiếp ta sẽ ra tay giúp ngài lo liệu tình hình Bắc Hà dần dần.
Nguyễn Huệ bây giờ đã thông suốt, nhưng có một điều ông vẫn băn khoăn:
-Nhưng còn Nguyễn Ánh ở phương nam?
Nguyễn Thiếp lắc đầu:
-Đừng bận tâm đến ông ta. Nguyễn Ánh vừa mới chiếm được Gia Định từ Nguyễn Lữ, còn phải ổn định nhiều thứ. Mãn Thanh là mối nguy to hơn. Tuy vậy ngài không nên dùng kế thảo dã, vườn không nhà trống như các vua trước là đánh lâu dài lê thê từ năm này qua năm khác.
-Ý tiên sinh là ta phải tiêu diệt chúng thật nhanh?
-Chính là như thế, càng nhanh càng tốt trước khi Nguyễn Ánh đủ mạnh để trở thành sự đe dọa cho nhà Tây Sơn. Mãn Thanh từ xa xôi nghìn trùng hành quân đến đây, lúc này là lúc mỏi mệt nhất. Ngài đánh một trận sấm sét ắt đại thắng.
Nguyễn Thiếp nắm chặt bàn tay thể hiện sức mạnh. Nguyễn Huệ chỉ dọc theo chữ S trên bàn:
-Nhưng ta vẫn chưa nghĩ ra được làm thế nào để hành quân ra miền bắc thật nhanh. Trước đây quân số ít ỏi nên không vấn đề. Còn bây giờ ta có cả voi chiến và đại bác. Voi vốn là loài chậm chạp, chưa kể xuất quân lần này phải cử đại binh đông đảo đi theo cự địch. Mà đường ra bắc thì sông đâm ngang phải đến hơn năm chục ngòi, làm sao đi mau đây?
La Sơn phu tử mỉm cười:
-Chuyện này ta đã tính trước khi ngài đến. Chúng ta sẽ làm như thế này…
Rồi hai người bàn luận đến tận sáng thì Nguyễn Huệ mới bái tạ trở về.
----
Bờ biển, cuối năm 1788,
-Cẩn thận, lên từng con một!
Bùi Thị Xuân nói lớn chỉ huy đội nài dẫn voi lên thuyền. Bầu trời xám xịt, sóng tung bọt nước trắng xóa. Đàn hải âu hiếu kỳ bay vòng vòng phía trên như muốn quan sát cảnh tượng ngoạn mục bên dưới.
-Anh Nhạc đã gửi một nửa số thuyền vận tải và chiến hạm Định Quốc ở Thị Nại đến đây thưa tiên sinh.
Nguyễn Huệ mặc áo vải, đứng cạnh quân sư Nguyễn Thiếp trên bờ biển. Gió thổi phần phật, râu tóc vị quân sư già bay phấp phới. Ông cười:
-Không khác gì cảnh Xích Bích ngày xưa.
Quả thật trước mắt hai người, dập dềnh giữa muôn trùng sóng nước đại dương là hàng trăm chiếc tàu, lớn có nhỏ có. Quân Tây Sơn đã phải gấp rút ngày đêm xây một cầu cảng tạm để chuyển hàng ra tàu. Cuối thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp cùng nhu cầu xâm lược thuộc địa của người châu Âu đã dẫn đến sự ra đời của những của những chiến hạm nhiều tầng pháo, loại vũ khí uy lực nhất trên biển thời ấy. Đối với đa số triều đại phong kiến phương Đông, các chiến hạm này thực sự là những mối đe dọa khủng khiếp. Tự tin trước những con quái vật đó, Nguyễn Huệ chủ trương đóng những chiến hạm có sức mạnh tương đương dựa trên việc tiếp thu kỹ thuật tiên tiến của phương Tây và tận dụng tay nghề khéo léo của của những người thợ đóng thuyền Đàng Trong. Và chiến hạm khổng lồ Định Quốc đã ra đời.
Đây thực sự là những pháo đài lớn di động trên biển với khả năng chở được voi chiến và trang bị tới 60 khẩu đại bác hạng nặng. Vào thời hoàng kim, Tây Sơn có gần 20 chiếc “pháo đài” như vậy. Chaigneau và Barizy, hai sĩ quan Pháp từng trực tiếp đối đầu với thủy quân Tây Sơn đã phải thừa nhận sức mạnh của những chiến hạm này nằm ngoài trí tưởng tượng của họ. Triều đại Tây Sơn đã tạo ra một bước nhảy vọt trong lịch sử kỹ thuật quân sự nước ta.
-Theo thứ tự mà làm. Đầu tiên đưa hết súng thần công lên. Đội tàu chở thần công sẽ tiên phong ra bắc trước. Đội thứ hai sẽ chở quân lương. Đội thứ ba chở quân binh. Còn đội cuối cùng chở voi!
Hổ tướng Lý Văn Bưu phối hợp cùng Bùi Thị Xuân giám sát tiến độ công việc. Toàn bộ Tây Sơn thập hổ tướng cùng có mặt tại đây để điều phối. Quân binh tấp nập ngược xuôi, người khuân gạo, kẻ kéo đại bác. Tiếng quát thét, hò reo vang lên ầm ĩ cả một vùng biển vắng. Nguyễn Huệ nheo mắt lại khi gió nổi càng lúc càng dữ, mang theo mùi muối mặn chát:
-Tiên sinh liệu việc như thần, thế này chẳng mấy chốc buồm no gió, ra bắc nhanh hơn phi ngựa!
Nguyễn Thiếp tiếp lời:
-Các chuyến hàng cập bến Bắc Hà, rồi ta vận chuyển dần về Tam Điệp hội với quân Tây Sơn ở đó. Còn việc của ngài là cưỡi ngựa chiêu mộ binh mã dọc đường. Tốt nhất là khi đến Nghệ An thì tiến hành tổng động viên thật lớn. Khi đó đoàn quân chỉ cần đi qua Thanh Hóa là tới được Tam Điệp, rất tiện. Không cần đem hết quân tại Phú Xuân chi cho cồng kềnh.
Nguyễn Huệ chắp tay bái phục:
-Tiên sinh đúng thật Khổng Minh tái thế. Vậy ta nên gọi kế này là gì?
La Sơn phu tử đưa tay vuốt râu rồi cười:
-Tây Sơn thần tốc.
Đó chính là:
Phá giặc còn chưa yên vó ngựa,
Ngăn thù đã sẵn liệu mưu cao!
Chưa biết Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sẽ đánh Mãn Thanh thế nào. Xin đọc hồi sau sẽ rõ.
Xem tiếp phần 6: Ô long đại đế
Xem tiếp phần 6: Ô long đại đế