Ngày đó Việt và Chăm là hai kẻ ngang tài ngang sức. Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, nhưng thắng bại thời nào cũng có. Mình chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu, Chăm chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn. Do khác nhau hoàn toàn nên hai nước cũng có một sự thích thú nhau nhất định. Như hoàng đế Việt mình rất mê các vũ nữ Apsara của Chăm với thân hình nảy nở, làn da bánh mật và đôi mắt to. Người Chăm xây dựng rất đẹp nên Việt mình cũng dùng thợ giỏi của họ, nhìn thánh địa Mỹ Sơn với tháp bà Ponagar là đủ đảm bảo chất lượng tay nghề rồi. Ẩm thực và âm nhạc Việt sau này cũng tiếp thu của Chăm (nước mắm, vv). Thậm chí vua Trần Nhân Tông được Chế Mân mời qua Chăm chơi, ghiền tới mức ở 9 tháng mới về, chắc được tắm biển Nha Trang :)).
Vậy mà nay cái dân tộc đó mất hết chẳng còn gì. Chính sách diệt chủng tàn bạo của người Việt sau khi chiến thắng đã lấy đi tất cả nền văn minh Champa. Trong khi lịch sử Việt Nam mình bước tiếp thì lịch sử Champa đã vĩnh viễn dừng lại ở cái năm 1832 oan nghiệt đó. Bây giờ dân số họ chẳng bao nhiêu, lại nghèo khổ. Như các phụ nữ Chăm phải gùi thuốc lên Sài Gòn, Đà Nẵng bán qua ngày.
----
Minh Thành Tổ Chu Đệ khi xâm lược Việt Nam đã viết:
"Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh Nho gia, kinh Phật, đạo Lão không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học… đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ không để sót."
Sau đó khi đã thôn tính xong Việt Nam thì hắn ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn hóa triệt để hơn:
"Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ nom thấy là phá hủy hết. Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại."
Sự hủy diệt đó khiến Ngô Sĩ Liên, nhà sử học chứng kiến những sự kiện này than rằng:
"Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn."
Rồi 400 năm sau mình cũng đối xử với Champa như vậy chả khác gì. Vua Minh Mạng sau khi thôn tính Champa đã ra lệnh đồng hóa người Chăm thành người Kinh bằng cách buộc người Chăm phải mặc đồ người Kinh. Ngăn cấm tuyệt đối người Chăm không có quyền cúng kiếng hay thực thi nghi lễ tín ngưỡng của họ. Bắt buộc dân chúng Chăm phải làm nô dịch vô cùng nặng nề như việc nộp cống các loại gỗ quý, voi rừng, ngà voi, vv. Chưa kể còn buộc các vị tu sĩ Hồi Giáo phải ăn thịt heo và tu sĩ Ấn Độ Giáo phải ăn thịt bò.
Minh Mạng còn cho phép quan lại người Kinh đứng ra chỉ đạo, dùng roi gậy đánh đập người Chăm nếu họ làm nô dịch quá chậm chạp. Buộc người Chăm phải nộp thịt rừng như hươu, nai, thỏ, v.v.. Một khi người Chăm không tìm ra món thịt thú rừng, các quan lại người Kinh san bằng nghĩa trang Chăm, chưa nói đến việc đưa người Chăm ra xử trảm.
Chính sách trừng phạt của triều đình Huế đã làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống tổ chức xã hội Chăm để rồi trong gia đình người em không còn biết người anh là ai; cháu không còn tôn trọng bậc chú bác; các thành viên trong gia đình đối xử với nhau như người Chăm-Kinh, không ngần ngại kéo nhau ra thưa kiện trước pháp lý Việt Nam.
Hết nộp thuế nặng nề, dân chúng Champa phải nộp một số lượng gỗ cho chính quyền Việt Nam dùng để đóng tàu chiến, xe bò hay đốt lò gạch. Phải xây dựng đập nước và hệ thống thủy lợi cho ruộng lúa của người Kinh. Ra lệnh tịch thu tất cả ruộng muối của người Chăm, được xem như là mạch máu kinh tế của dân tộc này.
Sau năm 1832, dân tộc Chăm tiếp thu thêm một khái niệm mới về tham nhũng mà họ chưa từng nghe đến trong đời. Những quan lại người Kinh không ngừng đòi tiền hối lộ của người Chăm để được miễn nô dịch. Không ngần ngại chia đất đai người Chăm thành mảnh vụn để đóng thuế và hình thành chính sách cho vay nặng lãi để rồi chủ nợ người Kinh tha hồ chiếm đoạt tài sản và ruộng rẫy của người Chăm thiếu nợ, hay bắt họ làm vật thế chấp.
Nhằm dập tan các cuộc khởi nghĩa chống đối, vua Minh Mang ra lệnh cho mỗi binh lính người Kinh phải chặt ba cái đầu của người Chăm vào mỗi buổi sáng mới nhận được tiền lương. Lợi dụng điều này, người Kinh tha hồ chém đầu người dân Chăm vô tội, càng nhiều càng tốt, để đem nộp cho chính quyền Việt Nam hầu nhận tiền thưởng. Đây là cuộc diệt chủng người Chăm vô cùng kinh hoàng chưa từng xảy ra trong lịch sử Đông Nam Á.
Người Việt mình ưa hòa bình nhưng khi cần mở rộng lãnh thổ thì cũng cực kỳ tàn nhẫn. Nói chung nước nào cũng vậy, chả riêng Việt Nam. Thời chưa có luật pháp quốc tế và Liên Hiệp Quốc thì phang nhau cướp đất là chuyện bình thường. Ngay cả Mỹ còn tàn sát người da đỏ khi khai phá miền tây mà. 2/3 lãnh thổ Việt Nam bây giờ là nhờ đánh chiếm mà có được. Nước mình may mắn ở chỗ, nếu ngày đó Lê Lợi sống an phận hoặc Nguyễn Trãi theo cha qua ải Nam Quan sang Tàu thì chắc giờ mình cũng mất nước vĩnh viễn như Champa rồi.
Trước mình đi phượt có ghé qua Ninh Thuận và Bình Thuận, nơi từng là tiểu quốc Panduranga của Champa thì không thấy mấy người Chăm. Tự nhiên rùng mình, cả một dân tộc đông đúc ngang người Việt mình mà giờ bị tàn sát đến mức trở thành dân tộc thiểu số, chỉ còn lại các phế tích đền đài rải rác dọc miền trung. Dân Việt trên toàn thế giới tới 2015 là 90 triệu, còn dân Chăm thì cỡ... 400 nghìn. Nhỏ em kết nghĩa mình là potterhead và cũng là hậu duệ người Chăm, không biết nhỏ có thấu được nỗi đau mất nước của tổ tiên không?
Mình vẫn còn nhớ chút bài thơ Trên Đường Về, và đã đọc khi nhìn thấy cái tháp Chàm đầu tiên ở Bình Thuận:
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.
Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn,
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng hương đưa rộn rã tiếng từ qui.
Đây chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận,
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.
Đây những cảnh thái bình trong Chiêm quốc
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui.
Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng,
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng,
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành.
Đây trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo,
Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa.
Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi
Và từ đấy lòng ta luôn tràn ngập
Nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời.