Hiển thị các bài đăng có nhãn Chúa Trịnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chúa Trịnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 21 tháng 1, 2016

Diễn biến Tây Sơn tranh hùng Nguyễn Ánh

tây sơn

Tóm tắt sơ qua diễn biến Tây Sơn tranh hùng với Nguyễn Ánh:

I- Giai đoạn đầu:

-Đàng Trong cuối thế kỷ 18, gian tặc Trương Phúc Loan lấn lướt chúa Nguyễn làm nhiều điều tàn ác, gây căm hận trong dân chúng. Ba anh em Tây Sơn nổi dậy với khẩu hiệu: "Lật đổ Trương Phúc Loan, phò tá Nguyễn Phúc Dương". Họ lấy của những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó được dân chúng các nơi theo về.

-Nguyễn Nhạc dùng mưu tự nhận mình là người được trời giao sứ mạng và nhờ đó ông tạo ra được một đội quân hùng mạnh, biến khởi nghĩa Tây Sơn (bên cạnh Lam Sơn) trở thành hai cuộc khởi nghĩa thành công nhất lịch sử phong kiến Việt Nam. Nhạc đi đến đâu, người dân tộc theo đến đấy. Các già làng tặng Tây Sơn voi ngựa. Trai tráng các buôn sắm lao, làm ná, mang gươm tới đầu quân, sát cánh cùng Nhạc đánh chiếm thành Quy Nhơn. 

-Nhạc ngồi vào cũi giả đò bị dân bắt đem nộp quan lấy thưởng. Quan Quy Nhơn tưởng thật cho khiêng vào thành. Nhưng đến nửa đêm Nhạc tháo cũi chui ra mở cửa thành cho đồng minh xông vào giết hết quan quân một cách bất ngờ, khiến họ trở tay không kịp. Thành Quy Nhơn nhanh chóng lọt vào tay Tây Sơn. Từ đấy anh em Nhạc, Huệ có một căn cứ chắc chắn để đánh các nơi khác. Trong số người Tàu tiếp tay cho họ có cả hai thương gia kiêm cả hải tặc là Lý Tài và Tập Đình.

-Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài lợi dụng tình trạng hỗn loạn ở Đàng Trong, sai lão tướng Hoàng Ngũ Phúc mang quân vào đánh, phá vỡ 100 năm hòa bình. Hoàng Ngũ Phúc vượt biên giới hai Đàng, oanh tạc thủ đô Phú Xuân dữ dội. Chúa Nguyễn chịu không nổi nhiệt, phải bỏ chạy vào Quảng Nam. Nhưng quá đen cho đội Nguyễn Phúc là lúc đó anh zai áo vải Nguyễn Nhạc cũng vừa kéo quân tới Quảng Nam để chuẩn bị múc Phú Xuân. Thế là Nguyễn Phúc Dương bị tóm cổ, còn chúa Nguyễn Phúc Thuần dắt díu các cháu mình vượt biển vào Gia Định.

-Nhạc có được Nguyễn Phúc Dương trong tay. Vốn là người mưu mẹo, ông ta muốn mượn danh của vị hoàng tử sa cơ này để kêu gọi, tăng sức mạnh cho Tây Sơn hơn nữa! Nhưng có một chuyện Nhạc không ngờ là quân Trịnh đột ngột xuất hiện tại Quảng Nam. Tây Sơn không hiểu đội quân hùng mạnh này đâu ra nữa, sao lại có mặt tại Đàng Trong? Hai bên nhìn nhau và cùng bày tỏ quan ngại sâu sắc.

-Tây Sơn và Trịnh giao tranh kịch liệt, nhưng Nguyễn Nhạc tuổi gì so với lão tướng dày dạn Hoàng Ngũ Phúc với 30 năm kinh nghiệm chinh chiến? Nhạc bị đánh te tua, thua tơi bời hoa lá hẹ. Tình hình quá căng nên Nhạc đành đầu hàng quân Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc thấy bọn thổ phỉ này có vẻ hữu ích, bèn chấp nhận và thu dụng quân Tây Sơn.

-Lúc này Tây Sơn đã trở thành “nhân viên sai vặt” của nhà Trịnh. Họ được giao hai nhiệm vụ chính: Thứ nhất là quản lý 3 nơi Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên. Thứ hai là làm tiên phong tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định. Hoàng Ngũ Phúc lúc này chỉ ngồi đó và giám sát Tây Sơn làm ăn thế nào. Ngu ngu là ông hốt xác bọn mày.

-Tây Sơn nhanh chóng tỏ ra mình thiện chiến thế nào. Nguyễn Huệ lần đầu xuất trận đã cầm Ô Long Đao chém chết tướng địch, chiếm được Phú Yên, sau đó là cả Quảng Nam. Nguyễn Lữ phi thẳng xuống miền nam chiếm được Gia Định, nhưng chỉ cướp gạo và của cải rồi đem về.

-Từ năm 1776 trở đi quân Tây Sơn mạnh lên thấy rõ, không còn ngán họ Trịnh nữa. Nguyễn Nhạc cho đắp lại thành Đồ Bàn làm kinh đô, dựng cung điện, xưng Tây Sơn Vương, phong hai em mình làm tướng. Lúc này hoàng tử Nguyễn Phúc Dương đang bị Tây Sơn giam cầm nhưng may mắn được giúp đỡ, trốn thoát vào Gia Định hội ngộ cùng gia tộc. Thế nhưng sau đó Nguyễn Huệ đuổi theo, và lần này hy vọng cuối cùng của họ Nguyễn Phúc là thành Gia Định sụp đổ. Huệ bắt giết toàn bộ gia đình, dòng họ chúa Nguyễn. Cậu bé Nguyễn Ánh là người duy nhất sống sót, nước mắt đầm đìa nhìn cả họ mình bị đóng cũi giải ra pháp trường. Chẳng còn cách nào khác, cậu phải tìm nơi nương náu ở một hòn đảo.

-1778, Nguyễn Nhạc chính thức lên ngôi hoàng đế Tây Sơn! Thế nhưng con cháu họ Nguyễn Phúc trong nam còn tiếp tục chiến đấu. Nguyễn Ánh được mọi người tôn làm nguyên soái khi mới 17 tuổi. Tuy Ánh mặc áo tang trở về quyết tâm đánh nhưng còn non kinh nghiệm, binh lính chưa đông, level chưa cao, thành ra thua cuộc phải chạy ra đảo Phú Quốc. Nguyễn Huệ 4 lần mang quân vào Gia Định và thành phố đã đổi chủ tới 7 lần. Các khu đô thị sầm uất Cù Lao Phố, Mỹ Tho và Chợ Lớn bị quân Tây Sơn thảm sát.

-Phò mã Trương Văn Đa của Tây Sơn truy nã Nguyễn Ánh khi đó đang lênh đênh trên biển. Có người đã phải hy sinh mặc đồ của Ánh để chết thay cho ông. Bất ngờ một cơn bão lớn ập đến, thuyền của Tây Sơn bị đắm nhiều đành phải rút lui, còn Nguyễn Ánh hú vía trốn thoát lần nữa, như Tom và Jerry.

-Nguyễn Huệ đuổi mãi không bắt được Nguyễn Ánh thì rất tức giận. Ông phá hủy tất cả lăng tẩm của các chúa Nguyễn từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Khoát Riêng về mộ phần của cha Nguyễn Ánh thì quân Tây Sơn quật hài cốt đổ xuống sông Hương.

II- Giai đoạn sau:

-Nguyễn Ánh lưu lạc rất khổ sở, nhiều lúc sống như ăn mày, nhưng nghĩ lại trách nhiệm của mình quá lớn, ông cắn răng mà bước tiếp. Đột nhiên ông nhớ tới Xiêm La. À, ta từng giúp vua Xiêm lên ngôi, thì nay hắn phải nghĩ tình đồng minh ngày trước mà trả ơn ta, giúp ta đòi lại những gì đã mất. Vua Xiêm chấp nhận cũng không thể ngờ được rằng hai đứa cháu ông ta lại lộng hành thả cho quân sĩ cướp bóc, hãm hiếp, tàn hại dân lành, tranh nhau cả tiền bạc Tây Sơn ném ra làm mồi nhử. Nguyễn Ánh cay đắng, hối hận vô cùng vì tin người, bởi vì ông không hề muốn làm hại những người dân nam bộ đã che chở cho mình. Ông biết Xiêm La khốn nạn như vậy thì đằng nào cũng bại trận nên đã bỏ đi. 

-Nguyễn Huệ nghe tin Xiêm La tràn sang nước ta, lập tức kéo quân từ Quy Nhơn xuống miền nam để phục kích bằng hỏa hổ thần công. Huệ đốc thúc ở phía sau, ra lệnh liều chết đánh, quân sĩ nào không quyết chiến thì chém ngay để làm gương. Vì thế các tướng sĩ đều liều, không nghĩ gì đến tính mạng, tiến công rất mãnh liệt. Quân Xiêm thua một trận kinh điển tại Rạch Gầm - Xoài Mút.

-Tây Sơn lúc này đã kiểm soát toàn bộ miền nam, Nguyễn Ánh mà lòi mặt ra là chết không có chỗ chôn. Thế nên ông trở lại Xiêm La, sống bên xứ ấy 3 năm. Trong 3 năm này ông giúp Xiêm La đánh Miến Điện và Mã Lai, coi như không còn mắc nợ vua Xiêm nữa. Tại đây Nguyễn Ánh nuôi dưỡng quân lính và chờ ngày phục thù.

-Ông nhận được sự che chở của Bá Đa Lộc, một giám mục công giáo.Thời gian đầu thập niên 1780, với những khó khăn gặp phải, mối quan hệ của Nguyễn Ánh với Bá Đa Lộc ngày càng thắt chặt, hình ảnh nước Pháp ngày càng lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Ánh. Đội quân Tây Sơn rất đông hải tặc Trung Hoa, hành động mà bây giờ gọi là “nuôi dưỡng khủng bố”. Nếu không mượn thuyền và quân Pháp thì khó bật lại được.

-Bá Đa Lộc đem con trai Nguyễn Ánh qua Pháp để thương lượng. Thế nhưng hiệp ước này chưa thành hiện thực thì cách mạng Pháp nổ ra, vua Louis bị chém chết. Bá Đa Lộc đắng hết cả lòng mề, đành tự bỏ tiền túi ra, đồng thời kêu gọi mọi người cùng quyên góp giúp chúa Nguyễn. 

-Nguyễn Ánh đột ngột trở về Nam Bộ. Nguyễn Lữ khi ấy đang có bệnh, liệu sức không địch nổi nên trở về Quy Nhơn tạ tội với anh Nhạc rồi bỏ đi giang hồ. Nguyễn Ánh tới bây giờ mới thật sự là có mảnh đất Gia Định để nương thân, rồi từ đó phát triển lên. Nhờ có sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Nguyễn Ánh mà Nam Kỳ xưa kia hoang vu dần dần trở nên trù phú, đông đảo và vui vẻ. Người ngoại quốc ra vào buôn bán tấp nập. 

-Lại nói về Hoàng Ngũ Phúc thấy quân Tây Sơn đã mạnh, bèn rút quân Trịnh về miền bắc. Ông đi được nửa đường thì ngã bệnh rồi chết. Mất đi Hoàng Ngũ Phúc thì coi như chúa Trịnh đã mất đi vị thần hộ mệnh Bắc Hà. Nguyễn Huệ nghe lời hàng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh, công khai làm phản, chiếm thành Phú Xuân từ tay quân Trịnh, rồi tiến ra bắc tiêu diệt họ Trịnh luôn! (Sẵn đem công chúa Ngọc Hân trở về, hihi)

-Tình hình miền bắc rất căng thẳng vì liên tục có những người phản bội Tây Sơn, trong khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đang bận ác chiến tại Quy Nhơn để so tài cao thấp. Lê Chiêu Thống mất hết quyền lực, bèn qua nhà Thanh xin cấp cứu. Tôn Sĩ Nghị theo lệnh Càn Long tiến vào Việt Nam. Quang Trung lập tức lên ngôi rồi hành quân thần tốc ra Thăng Long làm gỏi bọn xâm lược.

-Lê Chiêu Thống phẫn uất khi Càn Long công nhận Quang Trung là chủ nước Việt, ông tính bỏ vào nam theo Nguyễn Ánh nhưng không được. Nguyễn Ánh biết Quang Trung trước sau cũng đánh mình nên ông lén chạy ù ra Thị Nại đốt thuyền của Tây Sơn rồi chạy ù về lại Gia Định.

-Quang Trung cay lắm, bèn vỗ vai Nguyễn Nhạc, hai anh em chuẩn bị phối hợp 3 đường thủy bộ cùng nam tiến để cày cho bằng được Nguyễn Ánh. Lúc đó thì gió bị ngược nên phải đợi, tới lúc sắp có gió để giong thuyền thì Quang Trung đột tử. Chiến dịch bị hoãn vô thời hạn. Mọi kế hoạch Quang Trung ấp ủ cho một nước Việt hùng cường chấm dứt từ đây.

III- Giai đoạn cuối:

-Nguyễn Quang Toản lên thay cha làm hoàng đế Tây Sơn nhưng còn nhỏ quá nên bị gian thần lợi dụng. Các tướng nhà Tây Sơn cũng tìm cách hãm hại lẫn nhau. Vương triều này đã chẳng còn gì để dân lưu luyến nữa.

-Nguyễn Ánh nhiều lần thân chinh xuất trận. Cuối cùng ông cũng hạ được thành Quy Nhơn rồi trở về miền nam. Quy Nhơn ở vị trí lẻ loi, nói chung forever alone nên rất khó tiếp viện nếu bị đánh. Quả thật mùa thu năm đó quân Tây Sơn vây thành và chặn đường tiếp viện phía nam. Nhờ Võ Tánh giỏi cố thủ nên thành không bị mất. Nguyễn Ánh không thể để tướng của mình chết được nên ông tự đi cứu viện.

-Từ năm 1800, chiều sóng chiến trận đã từ từ trở nên bất lợi cho phía Tây Sơn. Lần đầu tiên Nguyễn Ánh thay vì trở về miền nam, đã ở lì lại Quy Nhơn khi đó đang bị Tây Sơn vây hãm dữ dội. Sau gần một năm giằng co mãi không cứu được Võ Tánh, ông quyết định tìm cách khác. Nguyễn Ánh chuyển hướng tấn công vào Phú Xuân sau khi đã hỏa thiêu toàn bộ chiến thuyền Tây Sơn ở Thị Nại trong một trận thủy chiến dữ dội chưa từng có của lịch sử Việt Nam.

-1802, từ ngày giữ chức đại nguyên soái đến lúc này trải qua 25 năm, Nguyễn Ánh được 40 tuổi, nhiều phen ông phải vào sinh ra tử cận kề cái chết, thì tới giờ mới chính thức đòi lại được kinh đô cũ của họ Nguyễn Phúc. Ông chính thức lên ngôi hoàng đế với hiệu là Gia Long. Cho sửa sang lại thành quách và khôi phục lại lăng tẩm tổ tiên (Sẵn cưa nàng Ngọc Bình luôn, hihi)

-Ngồi ngai vàng chưa nóng mông thì Gia Long tiếp tục xắn tay áo để truy đuổi tàn quân Tây Sơn. Vua Quang Toản bỏ Phú Xuân chạy tuốt ra bắc, Gia Long đuổi theo tới cùng. Trong đại chiến ác liệt tại Trấn Ninh, suýt nữa ông thua nhưng do Toản hèn nhát bảo Bùi Thị Xuân rút lui nên thành ra trận này Gia Long đại thắng.

-Đất Tây Sơn mất dần dần khi quân Nguyễn hừng hực khí thế thống nhất. Nguyễn Ánh tiếp tục chiến thắng tại Kỳ Sơn và tiến thẳng ra Thăng Long. Đây cũng là lần đầu ông đặt chân tới thủ đô Đại Việt, chứ trước đó Gia Long chẳng biết Hà Nội tròn méo thế nào cả. Quang Toản bị dân bắt nộp, ông cho giải về Phú Xuân. Trận chiến cuối cùng là tại Quảng Tây - Trung Quốc, Gia Long đã chém đầu Đại tư mã Trịnh Thất -1 hải tặc Trung Hoa trong hàng ngũ Tây Sơn- và kết thúc hoàn toàn cuộc nội chiến kéo dài suốt gần 30 năm, đưa Việt Nam về một mối.
Chi tiết

Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

Những cuộc phiêu lưu của Nguyễn Huệ - Phần 6: Ô Long đại đế

ô long

Xem lại phần 5: Quân sư chỉ lối

Ngày 22 tháng 12 năm 1788, 3 ngày trước giáng sinh,

Trời cuối năm mây mù xám xịt, gió lạnh rít thành từng luồng xoáy qua khe núi Ba Tầng, những giọt mưa đầu tiên đã rơi. Nguyễn Huệ oai phong lẫm liệt đứng trên đàn Nam Giao nhìn xuống. Phía dưới, mấy trăm quan liêu lớn nhỏ tụ tập đông đảo, dàn hàng thứ tự. Đội Tây Sơn thập hổ tướng đứng trước, toàn quân Phú Xuân đứng sau đến cả vạn người, đội ngũ chỉnh tề, quân uy rực rỡ, trải rộng như cả một biển áo vải bên ngoài. Công chúa Ngọc Hân nâng ấn ngọc hình rồng, trao qua Nguyễn Huệ. Huệ nhận lãnh, lập tức các quan đều đứng nghiêm trang để nghe đọc Chiếu lên ngôi:

“Nhà Thanh xâm phạm bờ cõi và chiếm lấy thủ đô Thăng Long nước ta. Trong lịch sử, Trưng Nữ Vương đánh Hán, Đinh Tiên Hoàng cự Tống, Trần Hưng Đạo phá Nguyên, và Lê Thái Tổ diệt Minh. Những đại anh hùng này không chấp nhận khoanh tay nhìn đất nước ta trở thành nô lệ. Họ hiệu triệu thiên hạ và đứng lên đuổi giặc. Nhà Thanh có lẽ đã quên mất kết cục của Hán, Tống, Nguyên, Minh. Ta sẽ làm chúng phải sống lại những ký ức hãi hùng ấy!

Ta là người áo vải đất Tây Sơn, không một tấc đất, vốn không có chí làm vua. Chỉ vì lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị minh chúa để cứu đời yên dân. Cho nên tập hợp nghĩa quân, xông pha chông gai, phá núi mở rừng. Mấy nghìn dặm đất cõi trời Nam đều thuộc về ta cả. Ta tự lượng mình phận bạc, tài đức không theo kịp cổ nhân, mà đất đai rộng lớn thế, nhân dân đông đúc thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu ngựa.

Thế nhưng Lê Chiêu Thống bán nước, nhà Lê coi như đã không còn tư cách trị vì Đại Việt nữa. Theo ý trời, thuận lòng người. Ta tuyên bố nhà Lê đã chết, Tây Sơn lên thay. Kể từ hôm nay hãy gọi ta là...

QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ!”

Nguyễn Huệ vung Ô long đao. Bỗng trùng hợp một tia sét chói lòa rạch ngang bầu trời, tiếng sấm gầm lên như tiếng rồng thần nổi giận. Trăm quan văn võ đồng loạt quỳ xuống cùng tung hô: “Vạn tuế! Vạn tuế!”. Vua Quang Trung áo choàng bay phấp phới trong gió, ông bảo Trần Quang Diệu mang đến một cái mâm lớn, bên trên là 200 đồng tiền có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ: 

-Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.

Nói xong, Quang Trung chắp tay khấn vái, đặng bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống sân. Quả nhiên quân sĩ đều thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc sẽ đánh bại quân Thanh.

Quang Trung bước xuống đài, leo lên lưng ngựa chỉ huy:

-Ba quân sẵn sàng, chúng ta chuẩn bị lên đường.

Tất cả đã được La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp lo chu đáo trước đó, sau lễ lên ngôi sẽ là lễ xuất quân. Binh sĩ hô lớn, binh khí rầm rập. Ánh mắt mọi người đều bừng lên niềm tin quyết thắng. Vua Quang Trung cầm đao chỉ về phương bắc:

-TIẾN LÊN, TÂY SƠN THẦN TỐC!

Rồi đoàn nghĩa quân khởi hành, khí thế hừng hực. Người đời sau có thơ kể rằng:

“Núi Ba Tầng thiết đàn làm lễ 
Cáo đất trời xin để lên ngôi 
Quang Trung hiệu triệu mấy lời 
Lập tức hạ lệnh đi ngay lên đường.”

---

Ngày 26 tháng 12 năm 1788,

Sau gần năm ngày hành quân ròng rã, Quang Trung đã tới được Nghệ An. Từ đây đi Tam Điệp không còn xa lắm. Đúng như mưu của quân sư Nguyễn Thiếp, do chuyển hết những thứ cồng kềnh nặng nề như voi chiến và đại bác lên thuyền nên quân Tây Sơn di chuyển cực nhanh. Bạn nào còn tin cái trò 2 người khiêng võng 1 người ngủ rồi thay ca nhau thì bỏ đi nha, hư cấu lộ liễu. Đi kiểu đó thì đến Thăng Long nhờ quân Thanh đào sẵn hố rồi chôn giùm luôn chứ sức đâu mà đánh nữa.

-Chúng ta sẽ dừng ở đây 10 ngày để tuyển thêm quân sau đó đi tiếp.

Vua Quang Trung bảo các tướng. Mọi người vâng dạ thi hành. Cứ 3 suất dân thì lấy 1 suất lính. Thanh niên nô nức đến ghi danh. Tuy nhiên có nhiều người sợ nghĩa vụ quân sự nên bỏ trốn. Tây Sơn để đủ quân số, bắt lính gay gắt đến nỗi người ta không biết trốn vào đâu để tránh quân dịch. Họ đem chó theo để tìm người trong rừng như tìm thú, lấy dao xỉa vào các đống rơm để xem có ai nấp không. Cuối cùng cũng gom thêm được 1 vạn người và một số voi.

-Được rồi, trực chỉ Tam Điệp!

Quang Trung tổng duyệt lần cuối, chỉnh lại hàng ngũ cho ngay ngắn rồi tiến quân. Bấy giờ đến được Tam Điệp thì đã qua năm mới dương lịch 1789. Quân Tây Sơn tại đây thấy bóng Quang Trung hoàng đế từ xa thì mừng hơn trúng số. Hóng dài cổ thì cuối cùng cứu tinh cũng đến rồi anh em ơi!!!

“Vua Quang Trung đường đường trước trận 
Áo hoàng bào lẫm liệt oai phong 
Gươm thiêng nạm ngọc đeo cùng 
Trên đầu voi chiến hào hùng ruổi rong.”

-Báo cáo tình hình đi.

Quang Trung hỏi. Ngô Văn Sở vội vàng tâu:

-Bẩm hoàng thượng, thần đã tổ chức chuyển toàn bộ hàng từ cửa biển vào đây. Hiện voi chiến, đại bác, quân lương đã đầy đủ, không thiếu thứ gì. Cách dùng thuyền này quả thật tuyệt hảo!

Quang Trung nghe vậy thì cười lớn. La Sơn phu tử tiên sinh tính toán chẳng sai lệch chút nào, gọi kế này Tây Sơn thần tốc thật không ngoa. Vua xách long đao đi kiểm tra một lượt phòng tuyến Tam Điệp, quả thật các kho lương dựng lên đầy ắp, voi ngựa khỏe mạnh, lính tráng đông đảo. Rồi vua truyền lệnh:

-Ba quân đi đường xa đã mệt. Hãy nghỉ ngơi ít ngày rồi chúng ta tổ chức ăn Tết sớm. Ngày mùng 7 năm Kỷ Dậu vào được Thăng Long thì ăn Tết to!

Thế là mọi người nô nức tổ chức Tết nguyên đán sớm. Không khí vui như Tết thật, cũng trang trí doanh trại bằng đào hồng, cũng nồi bánh chưng tỏa khói. Nhiệt độ miền bắc vào những ngày tháng giêng luôn buốt giá nhưng bừng lên giữa núi rừng Tam Điệp lạnh lẽo đó là hình ảnh ngày Tết ấm cúng của nghĩa quân Tây Sơn. Vua Quang Trung cũng giản dị ngồi ăn bánh chưng bánh giò cùng các tướng trong đại bản doanh, mọi người nâng cốc mừng Tết Kỷ Dậu.

-Thăng Long đã trở thành sào huyệt của giặc. Thằng trùm cuối Tôn Sĩ Nghị đang ở đấy. 

Ngô Văn Sở nói, ông cùng Ngô Thì Nhậm thay nhau kể rõ tình hình Bắc Hà.

-Tuy nhiên để bảo vệ Thăng Long thì chúng đã dựng lên rất nhiều đồn xung quanh. Ta phải diệt các đồn đó trước rồi mới múc được thằng Tôn Sĩ Nghị.

Quang Trung ân cần hỏi:

-Khanh nắm chắc tình hình, vậy đánh thế nào là tốt nhất?

Ngô Thì Nhậm mỉm cười:

-Theo ngu ý của thần ta nên bí mật tấn công. Đại Việt với Trung Hoa có cùng Tết nguyên đán. Chắc chắn Tết chúng sẽ lo ăn uống tiệc tùng, lơi lỏng phòng bị. Ta cứ phang cật lực vào ắt địch tụt quần mà chạy.

Quang Trung khen:

-Chính hợp ý trẫm. Vậy nay ta chia làm 5 mũi tấn công. Đội một theo ta đánh Hà Hồi. Đội hai đánh Ngọc Hồi. Đội ba đánh Khương Thượng. Đội bốn đánh Lê Chiêu Thống. Đội cuối chặn đường về Trung Quốc của giặc. Các khanh nắm được chưa?

Các tướng hô “Rõ”. Có thơ kể rằng:

“Đến Nghệ An lấy quân tinh nhuệ 
Mười ngàn người chưa kể dân binh 
Vài trăm voi chiến theo mình 
Chia quân tả, hữu năm doanh rõ ràng 

Sau năm ngày bụi hồng lấm áo 
Tới ngang đèo dựng giáo nghỉ chân 
Vua cho mở tiệc khao quân 
Định ngày mùng bảy đầu xuân sẽ vào.”

Muốn biết trận chiến cuối cùng sẽ ra sao, xin xem tiếp hồi sau sẽ rõ.

Xem tiếp phần 7: Trận chiến cuối cùng


Chi tiết

Những cuộc phiêu lưu của Nguyễn Huệ - Phần 5: Quân sư chỉ lối

nguyễn thiếp

Xem lại phần 4: Kinh thành đẫm máu

Bắc Kinh, năm 1788.

Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đứng bên dưới, hai bên là văn võ bá quan đang xì xào bàn tán. Càn Long phương phi bệ vệ trong bộ hoàng bào thêu rồng ngồi trên ngôi cao nhìn xuống. Ông hỏi:

-Vậy ra An Nam quốc vương Lê Chiêu Thống muốn mượn binh lực Đại Thanh ta để dẹp bọn Tây Sơn gì đó à?

Tôn Sĩ Nghị tâu:

-Dạ bẩm hoàng thượng, hắn ta nói rằng Tây Sơn hoành hành bá đạo, tự ý bàn chuyện phế lập, không coi vua ra gì, xã tắc lâm nguy. Nay hết sức thiết tha mong Càn Long đại đế đoái lòng cứu giúp.

Càn Long bật cười:

-Ái Tân Giác La Hoằng Lịch ta muốn đưa quân xuống An Nam đã lâu mà chưa có cớ. Nay vua nó sang tận đây cầu xin thiên triều, thế là ta danh chính ngôn thuận còn gì?

Tôn Sĩ Nghị tâu tiếp:

- An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi!

Càn Long nghe xong gật gù cho là phải. Rồi ông đứng dậy vung tay nói lớn:

-Trẫm chuẩn y.

Bỗng bên dưới có tiếng nhao nhao phản đối. Càn Long nhìn xem ai dám to gan, thì ra là mấy đứa con ông gồm cách cách Tiểu Yến Tử, Hạ Tử Vy, hoàng tử Ngũ A Ca, phò mã Phúc Nhĩ Khang. Tất cả đều bảo hoàng a mã không nên gây chiến tranh để máu chảy thành sông nữa. Vua xua tay:

-Gọi Dung ma ma vào đưa bọn nó ra ngoài. Om sòm.

Sau khi bốn đứa đã biến khuất mắt. Ông dõng dạc tuyên bố:

-Phong cho Tôn Sĩ Nghị làm nguyên soái, chỉ huy quân đội bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, và Quý Châu chinh phạt Tây Sơn. Mọi việc đều giao cho Sĩ Nghị lo liệu. Trẫm chờ tin thắng trận.

-Tuân lệnh hoàng thượng!

Đại thần Tôn Sĩ Nghị cúi đầu vâng mệnh. Chiến dịch hành quân này của ông là một trong mười chiến dịch lớn trong đời hoàng đế Càn Long, còn gọi là thập toàn võ công.

20 vạn hùng binh Mãn Thanh chia làm 3 đường rầm rập kéo sang Đại Việt do 3 chỉ huy Ô Đại Kinh, Sầm Nghi Đống và Tôn Sĩ Nghị thống lãnh. Chẳng mấy chốc đã đến ải Nam Quan, Lê Chiêu Thống nói:

-Đã đến địa phận nước nam thưa tổng đốc.

Tôn Sĩ Nghị đáp:

-Không cần ngươi nhắc.

Rồi ông đưa mắt quan sát một lượt. Vùng biên giới hoang vu cô tịnh, chỉ có tiếng oan hồn thảm tử rú rít. Nơi đây từng là mồ chôn xác biết bao đời quân bắc quốc. Bất giác Tôn Sĩ Nghị linh cảm điều gì đó, ớn lạnh dọc sống lưng. Tuy vậy ông vẫn nói cứng:

-Tiến quân!

Tiếng vó ngựa và binh khí vang lên cũng trấn an Tôn Sĩ Nghị phần nào. Kỳ này ra đi phải hùng tráng, và trở về phải vinh quang. Ông tưởng tượng một bữa tiệc linh đình tại Bắc Kinh chào đón, Càn Long hoàng đế mời ông ly rượu khải hoàn, danh vọng tột đỉnh. Phúc Khang An đi theo lo hậu cần, tổng cộng 18 kho quân lương được dựng lên trải dài từ ải Nam Quan đến tận Thăng Long.

Quân Tây Sơn đóng tại Bắc Hà khoảng 60 ngàn, nhưng 30 ngàn là bị bắt lính nên không có tinh thần chiến đấu. Ngay khi vừa thấy khí thế quân Thanh kinh khủng quá là lập tức đầu hàng hoặc bỏ trốn. Những người trung thành cố gắng chiến đấu kịch liệt, nhưng vì ít ỏi và yếu thế nên đại bại, nhiều người bị rét cóng hay chết đuối lúc vượt sông. Quân Tây Sơn thiệt mạng gần hết, buộc phải rút lui.

Tôn Sĩ Nghị đắc thắng tiến vào Thăng Long:

-Thế quân đang mạnh, giờ ta đánh xuống Quảng Nam tiêu diệt Nguyễn Huệ!

Nhưng có người can rằng:

-Đường vào đó rất xa. Chi bằng cứ ở đây cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn Tết. Qua mùng 6 hãy khởi hành.

Sĩ Nghị đồng ý bèn ở lại miền bắc. Quân Thanh tụ tập thêm được các Hoa Kiều tại đây, chừng một vạn người đóng thành một trại. Nhóm quân này ỷ thế đi cướp phá, và hãm hiếp đàn bà con gái không kiêng sợ ai. Dù Tôn Sĩ Nghị có ra sắc lệnh nghiêm quân kỷ nhưng cũng không có tác dụng lắm. 

Tình hình Bắc Hà khi ấy cực kỳ nguy ngập. Các tướng Tây Sơn họp mặt bàn nhau:

-Ngày xưa nghĩa quân Lam Sơn cũng dùng quân mai phục để đánh tan giặc Minh. Ta nên dùng lại kế ấy?

Quân sư Ngô Thì Nhậm can:

-Không đủ sức đâu. Chi bằng ta rút hết quân về núi Tam Điệp ở Ninh Bình, cách Thăng Long hơn 100 cây số. Bảo toàn lực lượng Tây Sơn còn lại ở đó rồi gửi thư về Phú Xuân báo tin cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ!

Mọi người nhất trí rồi cùng tiến hành rút quân khẩn cấp. Tình hình vô cùng bi đát, không có Nguyễn Huệ không xong. Bắt buộc phải có anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Niềm hy vọng cuối cùng...

-------
-----
---

Canh khuya, thành Phú Xuân.

Nguyễn Huệ ban ngày bận trăm công nghìn việc nên ban đêm ông mới có thời gian. Ông một mình đi đến nơi ở của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, vị quân sư khả kính mà ông đã tốn bao công sức mới mời được. Nguyễn Thiếp vốn sống thanh đạm đã quen, không ham công danh phú quý nên dù Nguyễn Huệ có xây hẳn một nơi khang trang cho ông thì Nguyễn Thiếp vẫn dựng một căn chòi nhỏ trong sân để đọc sách. 

-La Sơn phu tử tiên sinh còn thức chứ?

Nguyễn Huệ cung kính đứng bên ngoài cửa chòi khẽ hỏi. Một giọng thâm trầm đáp lại:

-Xin mời.

Nguyễn Huệ đẩy cửa bước vào. Những tháng cuối năm thành Phú Xuân mưa lạnh, gió rét căm căm nhưng bên trong căn chòi vẫn ấm áp và thơm nồng mùi thảo mộc. Ánh lửa cam nhạt nhảy nhót trên vách tường soi sáng một cụ già ăn mặc giản dị. Thì ra Nguyễn Thiếp tiên sinh đang chong đèn đọc binh pháp. Tuy niên kỷ đã cao, râu tóc bạc phơ như Bụt nhưng nhìn tiên sinh vẫn khỏe khoắn, da dẻ hồng hào như hài đồng, đặc biệt đôi mắt rất sáng, chứng tỏ người có bản lãnh thông tuệ trời đất.

Mình đọc Tam Quốc luôn ấn tượng cảnh Lưu Bị khổ cực, không ngại đường xa mưa gió tuyết rơi 3 lần tới Ngọa Long Cương cầu xin Khổng Minh ra làm quân sư. Kiểu 20 mấy năm trời đánh mãi không ăn được Tào Tháo, nên giờ Lưu Bị vã quá mà phải hạ mình đi năn nỉ một thanh niên xa lạ, dù địa vị ông khi đó là chú của hoàng đế.

Xông pha gió tuyết thỉnh hiền lương
Chẳng gặp, về không luống cảm thương
Váng đóng đầu khe, bông tuyết trắng
Lạnh tê yên ngựa, quãng đường trường...
Ngang đầu tới tấp hoa lê rụng,
Lướt mặt tơi bời nhành liễu vương
Ngoảnh lại, u buồn trông cảnh sắc:
Bạc phơi trắng xóa Ngọa Long Cương...

Không biết chính sử Tàu thì việc ấy có thật không hay do La Quán Trung chém gió để tác phẩm thêm hay. Nhưng nhìn lại nước mình thì ngày xưa Nguyễn Huệ thật sự phải năn nỉ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đủ 4 lần thì ông mới chịu làm quân sư cho. Nên nhớ Nguyễn Huệ là người rất hùng hổ, thét ra lửa mửa ra khói, tiếng vang như chuông, ai tiếp xúc cũng khiếp sợ, nhưng khi ngỏ lời với Nguyễn Thiếp thì lại rất mềm mỏng tha. Thậm chí Nguyễn Ánh về sau chiến thắng, giết rất nhiều người bên phe Tây Sơn để trả thù, nhưng với La Sơn phu tử thì một mực kính trọng, hy vọng ông về làm cho mình. Nhưng ông lấy cớ già yếu từ chối, Nguyễn Ánh cũng đành nghe theo. 

Mặc dù là một ẩn sĩ nhưng uy danh của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp vẫn lừng lẫy khắp toàn quốc, khiến cho trong cái thời loạn đó bao kẻ thèm muốn thì đủ biết ông bá đạo như thế nào. Ông giúp vua xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô và đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước Việt thay cho chữ Hán. Ba bí kíp giữ nước của ông cho Quang Trung đến ngày nay vẫn còn dùng được là: Quân đức, Dân tâm và Học pháp. Đại khái là vua nên sống đàng hoàng, thương yêu con dân, chăm lo cho giáo dục, tự khắc nước sẽ mạnh. Khi nhà Tây Sơn sụp đổ thì sự nghiệp của ông cũng đành dở dang. La Sơn phu tử quay về trại Bùi Phong sống ở đó những năm tháng cuối đời, mãi mãi không động đến việc trần ai nữa. Nhưng đó là chuyện về sau.

-Ta biết ngài sẽ tới, Bắc Bình Vương.

Nguyễn Thiếp cười và đặt cuốn sách lên bàn. Nguyễn Huệ ngồi xuống đối diện, thắc mắc:

-Sao tiên sinh biết?

Nguyễn Thiếp với tay lấy ấm trà, đáp:

-Cái gì mà ta chẳng biết. Ta còn biết Mãn Thanh vừa vào Thăng Long, còn Nguyễn Ánh vừa chiếm được Gia Định. 

Nguyễn Huệ giật mình:

-Tiên sinh quả là thần cơ diệu toán. Nhưng ta phải làm thế nào bây giờ?

Nguyễn Thiếp chậm rãi nói:

-Thiên hạ giờ đã hình thành thế chia ba. Ngài giữ vùng đất phương bắc, anh Nhạc ngài nằm giữa trung tâm, còn phía nam là lãnh địa Nguyễn Ánh.

-Đúng là như thế. Ta muốn thống nhất thiên hạ nhưng sức người không bằng ý trời.

Nguyễn Thiếp rót cho Nguyễn Huệ một chén, hỏi:

-Ngài nuôi hải tặc phải không Bắc Bình Vương? Bọn Tàu Ô.

Nguyễn Huệ im lặng một lúc rồi đáp:

-Phải, thưa quân sư.

-Ngài làm ngơ cho bọn chúng hoành hành tác oai tác quái cả vùng biển phía nam, gây ra bao nhiêu tội ác. Ta biết ngài cần bọn chúng làm đồng minh để đánh với quân Nguyễn. Nhưng ngài bảo Nguyễn Ánh đem quân Xiêm đánh ngài là “cõng rắn cắn gà nhà”, thì ngài dùng hải tặc Trung Hoa để đánh Nguyễn Ánh nên gọi là gì?

Nguyễn Huệ không nói nữa, Nguyễn Thiếp đã bắn trúng tim đen ông. La Sơn phu tử thở dài:

-Ta hiểu. Thời loạn thì ai không mong muốn nhanh chóng hạ gục đối phương. Mọi thủ đoạn đều có thể được đem ra để triệt hạ kẻ thù. 

-Tiên sinh nói đúng. Trước đây quân Tây Sơn chúng ta có thi hành một vài chính sách sai lầm khi đánh miền nam. Đã xảy ra một số vụ thảm sát và cướp bóc không đáng có. Còn hải tặc Tàu Ô này là quân bài chiến lược của hải quân Tây Sơn, và hiện tại thì chúng có lợi cho cuộc chiến của ta. 

Nguyễn Huệ thừa nhận. Nguyễn Thiếp nhìn vào mắt ông:

-Ngài 4 lần kiên nhẫn mời ta làm quân sư, còn nhiều hơn ngày xưa Lưu Bị mời Gia Cát Lượng. Tấm lòng tha thiết ấy ta biết rõ. Nhưng ta xuống núi để giúp ngài làm một minh quân chứ không phải một bạo chúa. Nên hứa với ta, ngày sau đất nước thống nhất hãy giải tán ngay bọn hải tặc Tàu Ô, đừng để chúng sách nhiễu nhân dân.

Nói đoạn, Nguyễn Thiếp cầm tách trà của mình đưa lên rồi ân cần nói:

-Điều quan trọng nhất khi làm vua là nhân tâm. Cũng như tách trà này. Nếu vua là trà thì dân là nước. Nước có thể nâng trà thì cũng có thể dìm trà.

Ông lắc lắc tách trà, quả nhiên trà chìm xuống đáy. Nguyễn Huệ hiểu ra, gật đầu. La Sơn phu tử nhúng một ngón tay vào tách cho ướt rồi vẽ một hình chữ S lên bàn. Xong ông chỉ vào nửa trên chữ S.

-Tây Sơn các ngài đã lỡ làm mất nhân tâm miền nam thì quyết đừng phạm sai lầm lần nữa tại miền bắc. Xứ Đàng Ngoài 200 năm nay gần như là một vương quốc độc lập, ngài bỗng dưng đến đánh dẹp họ Trịnh thì chắc chắn nhân tâm chưa có. Trong mắt người bắc ngài chỉ là một kẻ man di mọi rợ đến phá nát hòa bình của họ. Vì vậy hãy tìm cách lấy lòng dân thì Bắc Hà mới bền vững.

Nguyễn Huệ chắp tay, khẩn khoản:

-Vậy nhờ tiên sinh chỉ ta một con đường.

Nguyễn Thiếp vuốt râu:

-Nay sẵn có quân Mãn Thanh vừa đến, Bắc Bình Vương phải đánh một trận thật dữ dội, thật oanh liệt. Dân nước nam ta xưa nay vốn e dè bắc quốc. Nếu ngài lập nên một chiến công trác tuyệt như Lê Lợi ngày xưa đánh Đại Minh thì toàn thiên hạ sẽ hướng về ngài. Sau đó Nguyễn Thiếp ta sẽ ra tay giúp ngài lo liệu tình hình Bắc Hà dần dần.

Nguyễn Huệ bây giờ đã thông suốt, nhưng có một điều ông vẫn băn khoăn:

-Nhưng còn Nguyễn Ánh ở phương nam?

Nguyễn Thiếp lắc đầu:

-Đừng bận tâm đến ông ta. Nguyễn Ánh vừa mới chiếm được Gia Định từ Nguyễn Lữ, còn phải ổn định nhiều thứ. Mãn Thanh là mối nguy to hơn. Tuy vậy ngài không nên dùng kế thảo dã, vườn không nhà trống như các vua trước là đánh lâu dài lê thê từ năm này qua năm khác.

-Ý tiên sinh là ta phải tiêu diệt chúng thật nhanh?

-Chính là như thế, càng nhanh càng tốt trước khi Nguyễn Ánh đủ mạnh để trở thành sự đe dọa cho nhà Tây Sơn. Mãn Thanh từ xa xôi nghìn trùng hành quân đến đây, lúc này là lúc mỏi mệt nhất. Ngài đánh một trận sấm sét ắt đại thắng.

Nguyễn Thiếp nắm chặt bàn tay thể hiện sức mạnh. Nguyễn Huệ chỉ dọc theo chữ S trên bàn:

-Nhưng ta vẫn chưa nghĩ ra được làm thế nào để hành quân ra miền bắc thật nhanh. Trước đây quân số ít ỏi nên không vấn đề. Còn bây giờ ta có cả voi chiến và đại bác. Voi vốn là loài chậm chạp, chưa kể xuất quân lần này phải cử đại binh đông đảo đi theo cự địch. Mà đường ra bắc thì sông đâm ngang phải đến hơn năm chục ngòi, làm sao đi mau đây?

La Sơn phu tử mỉm cười:

-Chuyện này ta đã tính trước khi ngài đến. Chúng ta sẽ làm như thế này…

Rồi hai người bàn luận đến tận sáng thì Nguyễn Huệ mới bái tạ trở về.

----

Bờ biển, cuối năm 1788,

-Cẩn thận, lên từng con một!

Bùi Thị Xuân nói lớn chỉ huy đội nài dẫn voi lên thuyền. Bầu trời xám xịt, sóng tung bọt nước trắng xóa. Đàn hải âu hiếu kỳ bay vòng vòng phía trên như muốn quan sát cảnh tượng ngoạn mục bên dưới.

-Anh Nhạc đã gửi một nửa số thuyền vận tải và chiến hạm Định Quốc ở Thị Nại đến đây thưa tiên sinh.

Nguyễn Huệ mặc áo vải, đứng cạnh quân sư Nguyễn Thiếp trên bờ biển. Gió thổi phần phật, râu tóc vị quân sư già bay phấp phới. Ông cười:

-Không khác gì cảnh Xích Bích ngày xưa.

Quả thật trước mắt hai người, dập dềnh giữa muôn trùng sóng nước đại dương là hàng trăm chiếc tàu, lớn có nhỏ có. Quân Tây Sơn đã phải gấp rút ngày đêm xây một cầu cảng tạm để chuyển hàng ra tàu. Cuối thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp cùng nhu cầu xâm lược thuộc địa của người châu Âu đã dẫn đến sự ra đời của những của những chiến hạm nhiều tầng pháo, loại vũ khí uy lực nhất trên biển thời ấy. Đối với đa số triều đại phong kiến phương Đông, các chiến hạm này thực sự là những mối đe dọa khủng khiếp. Tự tin trước những con quái vật đó, Nguyễn Huệ chủ trương đóng những chiến hạm có sức mạnh tương đương dựa trên việc tiếp thu kỹ thuật tiên tiến của phương Tây và tận dụng tay nghề khéo léo của của những người thợ đóng thuyền Đàng Trong. Và chiến hạm khổng lồ Định Quốc đã ra đời. 

Đây thực sự là những pháo đài lớn di động trên biển với khả năng chở được voi chiến và trang bị tới 60 khẩu đại bác hạng nặng. Vào thời hoàng kim, Tây Sơn có gần 20 chiếc “pháo đài” như vậy. Chaigneau và Barizy, hai sĩ quan Pháp từng trực tiếp đối đầu với thủy quân Tây Sơn đã phải thừa nhận sức mạnh của những chiến hạm này nằm ngoài trí tưởng tượng của họ. Triều đại Tây Sơn đã tạo ra một bước nhảy vọt trong lịch sử kỹ thuật quân sự nước ta.

-Theo thứ tự mà làm. Đầu tiên đưa hết súng thần công lên. Đội tàu chở thần công sẽ tiên phong ra bắc trước. Đội thứ hai sẽ chở quân lương. Đội thứ ba chở quân binh. Còn đội cuối cùng chở voi!

Hổ tướng Lý Văn Bưu phối hợp cùng Bùi Thị Xuân giám sát tiến độ công việc. Toàn bộ Tây Sơn thập hổ tướng cùng có mặt tại đây để điều phối. Quân binh tấp nập ngược xuôi, người khuân gạo, kẻ kéo đại bác. Tiếng quát thét, hò reo vang lên ầm ĩ cả một vùng biển vắng. Nguyễn Huệ nheo mắt lại khi gió nổi càng lúc càng dữ, mang theo mùi muối mặn chát:

-Tiên sinh liệu việc như thần, thế này chẳng mấy chốc buồm no gió, ra bắc nhanh hơn phi ngựa!

Nguyễn Thiếp tiếp lời:

-Các chuyến hàng cập bến Bắc Hà, rồi ta vận chuyển dần về Tam Điệp hội với quân Tây Sơn ở đó. Còn việc của ngài là cưỡi ngựa chiêu mộ binh mã dọc đường. Tốt nhất là khi đến Nghệ An thì tiến hành tổng động viên thật lớn. Khi đó đoàn quân chỉ cần đi qua Thanh Hóa là tới được Tam Điệp, rất tiện. Không cần đem hết quân tại Phú Xuân chi cho cồng kềnh.

Nguyễn Huệ chắp tay bái phục:

-Tiên sinh đúng thật Khổng Minh tái thế. Vậy ta nên gọi kế này là gì?

La Sơn phu tử đưa tay vuốt râu rồi cười:

-Tây Sơn thần tốc.

Đó chính là:

Phá giặc còn chưa yên vó ngựa,
Ngăn thù đã sẵn liệu mưu cao!

Chưa biết Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sẽ đánh Mãn Thanh thế nào. Xin đọc hồi sau sẽ rõ.

Xem tiếp phần 6: Ô long đại đế

Chi tiết

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

Những cuộc phiêu lưu của Nguyễn Huệ - Phần 2: Con sói cô độc

nguyễn huệ

Xem lại phần 1: Tây Sơn khởi nghĩa

Nguyễn Huệ đã tiêu diệt chúa Nguyễn và tiến hành lùng bắt cậu bé cuối cùng của gia tộc này là Nguyễn Ánh nhưng không thành công. Nguyễn Ánh được dân nam bộ hết sức che giấu nên thoát. Bấy giờ Nguyễn Huệ mới hướng tầm nhìn về phương bắc, nơi đó vẫn còn một kẻ phải lật đổ: chúa Trịnh.

Qua bài Đặng Thị Huệ chắc các bạn cũng biết Trịnh Tông. Thật sự thì không phải ai cũng phục vị chúa mới này, và Nguyễn Hữu Chỉnh là một trong số đó. Ông đẹp trai, giỏi cả văn lẫn võ nên người ta gọi là Cống Chỉnh. Sau khi người ông phò tá là chúa Trịnh Cán bị lật, Hữu Chỉnh đã lén bỏ vào nam đầu hàng Tây Sơn. Nguyễn Nhạc mừng lắm:

-Ta có được Hữu Chỉnh thì khác gì cá gặp nước!

Nguyễn Nhạc gấp rút bàn kế hoạch đánh chiếm thành Phú Xuân từ tay quân Trịnh. Hữu Chỉnh là người mưu mẹo, ông nghĩ ra kế ly gián. Ông viết một lá thư dụ hàng tướng giữ thành Phú Xuân, nhưng lại gửi sang phó tướng của hắn. Thế là sinh ra nghi ngờ, rồi mất đoàn kết. Đến khi quân Tây Sơn kéo tới đánh thì hai thím giữ thành mặc kệ nhau, éo thèm cứu, cuối cùng mất thành theo một phong cách không thể nào nhảm hơn.

Nguyễn Huệ chiếm được Phú Xuân rồi, sướng lắm, thành ra muốn chơi tới bến luôn. Hữu Chỉnh biết ý nên bảo:

-Đang đà thắng thì chúa công đánh ra bắc luôn đi.

Nguyễn Huệ nhíu mày:

-Nhưng chưa có lệnh của anh Nhạc ta.

-Kệ ổng, khô máu đi!

Nguyễn Huệ khi ấy còn trẻ, còn sung nên ok luôn. Tất cả tiếp tục hành quân ra Đàng Ngoài với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh", chỉ để lại Nguyễn Lữ giữ Phú Xuân. Đánh chúa Nguyễn thì mất 7 tháng, còn đánh chúa Trịnh mất có 1 tháng thôi. Do Huệ và Chỉnh đều giỏi nên thắng như chẻ tre, chẳng mấy chốc đã tới sát thành Thăng Long. Trịnh Tông bó tay, bèn tự sát.

Đây là lần đầu tiên Nguyễn Huệ ra thủ đô Hà Nội chơi nên cũng có nhiều bỡ ngỡ, Nguyễn Hữu Chỉnh phải làm tour guide hướng dẫn anh trai quê mới lên phố. Chỉnh sắp xếp cho Huệ gặp vua Lê Hiển Tông, rồi cũng Chỉnh hỏi cưới Ngọc Hân cho Huệ luôn. Kỳ này ra bắc lấy được công chúa, nhất anh trai áo vải rồi.

Lại nói về Nguyễn Nhạc khi đó đang ở Quy Nhơn, ông rất sốc:

-Ơ cái thằng Huệ này, anh bảo mày đánh ra Huế rồi thôi, chứ có bảo mày chơi tới tận… Hà Nội đâu???

Nhạc khi ấy đang là hoàng đế Thái Đức của Tây Sơn, ông rất sợ nếu không kiểm soát được Huệ thì nguy to. Có vẻ Huệ không còn là thằng em bé bỏng mà hàng ngày ông vẫn đi buôn trầu về nuôi lúc nhỏ, nó không còn nghe lời anh hai nữa rồi. Nhạc lập tức ra tận Thăng Long gặp em, ông trách:

-Anh chỉ muốn giữ Nam Hà thôi. Chú phang cả Bắc Hà làm gì? Đi về ngay!

Nguyễn Huệ đành theo anh về miền nam. Nhạc bấm nhỏ Huệ nói:

-Anh không tin Nguyễn Hữu Chỉnh lắm. Hắn vốn là người của Đàng Ngoài, nhưng lại kêu chú dẫn quân đánh ra Đàng Ngoài. Có ngày anh em mình cũng bị hắn phản bội, tốt hơn hết là không trọng dụng nữa.

Nguyễn Huệ cũng đồng ý, thế là hai người âm thầm rút về Đàng Trong mà không báo cho Hữu Chỉnh. Hữu Chỉnh khi ấy luôn theo sát Nguyễn Huệ nên lúc Huệ đột ngột biến mất thì ông biết ngay, vội vã lên ngựa đuổi theo. Thành Thăng Long giờ đã trở thành nơi vô cùng nguy hiểm, những người ủng hộ chúa Trịnh rất căm ghét Chỉnh vì dám dẫn “giặc Tây Sơn” vào nhà. Chỉnh ra đi là cách tốt nhất.

-Ê ê, sao bỏ tôi ở lại!?? Chơi kỳ vậy?

Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng bắt kịp đoàn quân của Nguyễn Huệ. Huệ hết cách, bèn bảo ông trấn thủ Nghệ An, chỗ này nằm giữa Phú Xuân và Thăng Long. 

Lúc bấy giờ Lê Hiển Tông già rồi chết, Lê Chiêu Thống lên thay. Phe cánh họ Trịnh bàn nhau:

-Bọn Tây Sơn đã về nam hết rồi, ta khôi phục lại chúa Trịnh thôi.

Nói là làm, họ tôn Trịnh Bồng lên ngôi chúa. Trịnh Bồng đem quân vây chặt cung vua, định phế bỏ Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống trước đó đã có linh tính, bèn viết thư gửi vào Nghệ An cho Hữu Chỉnh:

-Cứu Trẫm!

Nguyễn Hữu Chỉnh đọc xong, lập tức nai nịt gọn ghẽ rồi lên đường. Một vạn quân của ông kéo thẳng đến Thăng Long cứu giá. Các tướng chúa Trịnh làm quái gì có cửa so tài với danh tướng Nguyễn Hữu Chỉnh kia chứ? Họ Trịnh bị đánh cho tan tác đến không thể khôi phục được nữa. Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, phủ chúa Trịnh được xây từ hơn 200 năm bị Lê Chiêu Thống cho người đốt cháy rụi. Cả một kỳ quan nhân tạo của Việt Nam tan thành tro bụi sau 10 ngày.

-Hoàng thượng long thể vẫn an khang chứ?

Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi. Lê Chiêu Thống mệt mỏi:

-Ta vẫn lo lắng về bọn mọi rợ Tây Sơn. Ta không muốn chúng quay lại.

-Đừng lo hoàng thượng. Thần đầu quân cho Tây Sơn chỉ là bất đắc dĩ. Nay Nguyễn Huệ đã giao cho thần trấn giữ đất Nghệ An. Thần sẽ biến đây thành vùng bất khả xâm phạm để ngăn Tây Sơn trở lại Bắc Hà.

Chiêu Thống mừng rỡ cầm tay Hữu Chỉnh:

-Nhà Lê nhờ khanh cả đấy!

Hữu Chỉnh tuân lệnh rồi quay trở lại Nghệ An ra sức xây thành đắp lũy để tạo nên một phòng tuyến kiên cố chống Tây Sơn. Nhưng thực ra Chỉnh chỉ coi vua Lê là thằng trẻ con, ông muốn chính mình làm vua cơ. Trong khi Hữu Chỉnh đang âm mưu thì một tướng Tây Sơn tên Vũ Văn Nhậm cấp báo với Nguyễn Huệ:

-Nguyễn Hữu Chỉnh muốn làm phản thưa chúa công!

Nguyễn Nhạc nhìn Huệ rồi nói:

-Đấy, anh nói chú đâu có sai. Thế nào cũng có ngày này. Tự nhiên giao Nghệ An cho hắn chi không biết.

Huệ mặt đỏ ngầu:

-Quân phản phúc!

Rồi ra lệnh cho Vũ Văn Nhậm lập tức tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh có thể coi thường các tướng Trịnh nhưng với Vũ Văn Nhậm thì rất kiêng dè. Nhậm vô cùng mạnh khỏe, giỏi võ và binh pháp. Hữu Chỉnh đánh không lại bèn bỏ chạy. 

Nhưng ông vẫn chưa chịu thua, ông với quân Tây Sơn cách nhau một con sông. Hữu Chỉnh có 50 chiếc thuyền chứa toàn đại bác, định sẽ bật lại. Nhưng thằng chỉ huy ông giao cho lại chủ quan không phòng bị. Thế là khuya ấy quân Tây Sơn ngầm bơi qua lấy dây thừng… kéo hết sang bờ bên kia. Mất sạch đội thuyền cùng đại bác chỉ sau một đêm, Nguyễn Hữu Chỉnh kinh hoàng:

-Cái quái gì đang xảy ra vậy…

Rồi ông tiếp tục chạy về Thăng Long bắt lấy Lê Chiêu Thống cùng bỏ trốn với mình. Nhưng quân Tây Sơn di chuyển cực nhanh, bao vây mọi ngả đánh tan tành quân Hữu Chỉnh. Ông thế cùng lực kiệt, lên ngựa chạy một mình:

-Nhanh lên con khốn!

Hữu Chỉnh thúc ngựa nhưng con vật bị què nên chạy không nổi. Bốn chân quỵ xuống hất Hữu Chỉnh lăn lông lốc, quân Tây Sơn xúm lại bắt trói. Vũ Văn Nhậm cười:

-Ha ha, đại bàng gãy cánh!

Rồi ra lệnh cho xé xác vì tội bất trung. Con sói cô độc Nguyễn Hữu Chỉnh một đời mưu kế, cuối cùng phải nhận kết cục thảm khốc. Nhưng đó chỉ là khởi đầu cho một chuỗi đại loạn tại Bắc Hà, những chuyện tiếp theo thế nào, các bạn chờ hồi sau sẽ rõ.

Xem tiếp phần 3: Huynh đệ tương tàn

Chi tiết

Những cuộc phiêu lưu của Nguyễn Huệ - Phần 1: Tây Sơn khởi nghĩa

Tây Sơn

Các chúa Nguyễn đều là những người nhân từ, tốt bụng, luôn cố gắng đem lại những điều tốt nhất cho xứ Đàng Trong của họ. Nhân dân rất yêu mến nên mới gọi thân mật là chúa Tiên, chúa Sãi, chúa Thượng. Vậy mà xui một cái là cai trị đến đời thứ tám lại xuất hiện một thằng họ ngoại là Trương Phúc Loan. Thằng này cực ác, Đàng Trong từ một xứ sở thần tiên trù phú thành nơi đói kém, lầm than, lòng dân oán hận là do nó. Vàng bạc trong nhà Trương Phúc Loan bày ra sáng chóe cả sân. Hắn cũng là kẻ đã giết cha Nguyễn Ánh và đồng thời là nguyên nhân chính của khởi nghĩa Tây Sơn.

Lúc bấy giờ ở ấp Tây Sơn có ba anh em Nhạc Huệ Lữ đang theo học sư phụ Trương Văn Hiến. Ông dạy họ đủ thứ từ côn quyền đến binh pháp. Nhạc là dân buôn bán nên đầu óc ranh mãnh, Huệ thì dũng cảm hùng hổ, còn Lữ thì hiền lành, chỉ thích tập võ chứ không nuôi mộng lớn như hai anh. Ba anh em giỏi võ đến mức sáng tạo ra phái Tây Sơn Bình Định còn đến ngày nay. Ông Trương Văn Hiến thấy thế bèn vỗ vai ba người rồi phán:

-Tây khởi nghĩa, Bắc thu công!

Ý khuyên họ giỏi vậy thì nên làm sự nghiệp to tát để lưu danh muôn đời, chứ quanh quẩn ở cái ấp bé nhỏ này làm gì. Thế là khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ với danh nghĩa là tiêu diệt tên ác ôn Trương Phúc Loan.

Mình sẽ không đi sâu vào chi tiết vì dài lắm, nhưng đại khái là rất đông người theo Tây Sơn vì cái khẩu hiệu của họ: “công bằng, không tham nhũng, và chỉ cướp của của người giàu, giúp người nghèo.” (fair, no corruption, only looting the rich, and help the poor)

Người trần nhìn thấy ba Nguyễn tướng,
Có chăng nghe rõ chữ Tây Sơn?

Buổi đầu thì nghĩa quân Tây Sơn đúng chuẩn Robin Hood luôn. Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại Tây Sơn tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong. Họ vào nhà giàu, nếu đem nộp ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo. Họ chỉ giữ gạo và lương thực mà thôi.

Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ. Sau này lên nắm quyền thì mới bắt đầu áp dụng các chế độ bắt lính và lao động khắc nghiệt tàn bạo, nhưng đấy là chuyện về sau. Mình rạch ròi, cái gì ra cái đó. Đọc sử đa chiều là vậy, cái gì tốt thì khen, cái gì xấu thì tìm hiểu tại sao nó như vậy.

Quân Tây Sơn dùng mưu đánh chiếm được thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi cho quân khiêng đến giao nộp. Nửa đêm ông phá cũi, cùng quân trá hàng và quân bên ngoài phối hợp đánh chiếm thành. Thành này là nơi các nhà buôn chịu nhiều luật lệ mất dạy do Trương Phúc Loan đặt ra nên đã quay sang ủng hộ tài chính cho ba anh em. Quy Nhơn chính là “đất tổ” của triều đại Tây Sơn, thành ra sau này mỗi lần để mất Quy Nhơn là họ luôn cố sống cố chết chiếm lại nó.

Khởi nghĩa Tây Sơn đối với Trương Phúc Loan giống như một khối ung thư quái ác. Bắt đầu từ một cái u nhỏ ở Quy Nhơn bắt đầu di căn nhanh chóng khắp xứ Đàng Trong. Quân Nguyễn đã cố gắng cầm cự và giữ được Tây Sơn ở Phú Yên, không cho lan tiếp xuống miền nam. Lúc đó một sự kiện không ai ngờ tới xảy đến: họ Trịnh ra tay!

Sau 100 năm hòa bình với họ Nguyễn, họ Trịnh chính thức tham chiến. Chúa Trịnh Sâm cho lão tướng Hoàng Ngũ Phúc xuất quân chinh phạt phương nam, cũng lấy cớ tiêu diệt Trương Phúc Loan luôn. Cả họ Nguyễn ở Phú Xuân nghe tin này nhốn nháo hết cả lên. Trước mặt có quân Trịnh, sau lưng có quân Tây Sơn, bị đánh hai mặt thì chạy kiểu gì bây giờ??? Họ bắt Trương Phúc Loan giao nộp quân Trịnh để mong lui quân. Nhưng đấy chỉ là cái cớ. Quân Trịnh cần Trương Phúc Loan làm quái gì, họ cần cả xứ Đàng Trong cơ!

Họ Nguyễn buộc lòng phải bỏ kinh đô Phú Xuân vượt biển chạy tuốt vào Sài Gòn. Cậu bé Nguyễn Ánh sợ quá khóc rưng rức. Cậu chưa đủ lớn để hiểu tại sao gia tộc mình lại gặp biến cố khủng khiếp này. Cậu bé ngây thơ đâu biết rằng ngày sau chính cậu là chân mệnh thiên tử, gánh cả trách nhiệm phục hưng gia tộc lên đôi vai khi mọi người đều đã chết.

Quân Trịnh chiếm được thành Phú Xuân, đây là lần đầu tiên họ làm được điều này. Đang đà thắng thế thì họ vượt đèo Hải Vân đánh xuống miền nam luôn. Tự nhiên đến Quảng Nam thì quân Trịnh và quân Tây Sơn đụng nhau. Hai bên đều ngạc nhiên: “Mày là thằng nào? Tao đang đánh bọn Nguyễn mà? Mày ở đâu chui ra vậy mấy thằng sida kia???”

Dĩ nhiên là có đập nhau một trận để khẳng định số má rồi. Tây Sơn lúc đó mới thành lập nên dù sao vẫn yếu hơn một đội quân triều đình dày dạn, lại có danh tướng Hoàng Ngũ Phúc. Nguyễn Nhạc bế cmn tắc, giờ nếu đánh với cả Trịnh và Nguyễn thì Tây Sơn coi như xong phim. Cuối cùng Nhạc đành quy phục quân Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc nói:

-Anh cho Tây Sơn của chú làm tiên phong đi đánh quân Nguyễn. Chú đừng làm anh thất vọng nhá.

Nhiệm vụ đầu tiên Nhạc được giao là phải chiếm Phú Yên. Mặc dù vậy quân Trịnh vẫn đóng ngay sau đít để giám sát, như kiểu giám đốc coi nhân viên làm ăn như nào. Nếu Tây Sơn thành công thì không sao, còn nếu thất bại thì quân Trịnh sẽ tràn xuống hốt xác cả hai luôn. Nguyễn Nhạc thở dài, bèn nói với Nguyễn Huệ:

-Huệ, ca này khó, anh cho chú trổ tài.

-Tuân lệnh đại ca!

Nguyễn Huệ lúc bấy giờ mới 23 tuổi, trẻ măng, chưa có kinh nghiệm đánh trận. Nguyễn Nhạc tuy giao vậy nhưng cũng không yên tâm lắm. Ông lại tính liên kết với quân Nguyễn ở Phú Yên để bật lại thằng Trịnh. Thế nhưng chưa kịp nói thì Nguyễn Huệ đã… hạ xong Phú Yên rồi, lại còn tự mình lấy Ô Long Đao chém bay đầu tướng Nguyễn nữa. 

Hoàng Ngũ Phúc bất ngờ là Tây Sơn thắng quá nhanh quá nguy hiểm như thế nên không đánh nữa. Ít lâu sau thì quân Trịnh lui về miền bắc. Sau chiến thắng Phú Yên thì Nguyễn Huệ chính thức bước vào vũ đài lịch sử, tên tuổi lừng lẫy khắp giới giang hồ. Ông làm được một kỳ tích là trong vòng 7 tháng chiếm được toàn bộ Đàng Trong, giết được hai chúa Nguyễn, kết thúc 200 năm cai trị của dòng họ này.

Thế nhưng về sau quân Tây Sơn khi nam chinh đã lỡ tay tàn sát nhiều người vô tội, phá hủy nhiều đại đô thị. Dân miền nam hoàn toàn bị sốc, họ không hiểu tại sao Tây Sơn lại làm vậy. Đó là lý do rất nhiều người đặt niềm tin vào vương tử cuối cùng còn sót lại của gia tộc: Nguyễn Phúc Ánh. Họ lo tiền bạc cũng như ra sức che giấu cậu bé khỏi sự truy sát của Tây Sơn. Từ đây Tây Sơn cũng như Nguyễn Huệ đã tạo ra đối thủ lớn nhất trong đời họ.

Bài này chủ yếu nói vắn tắt về nguồn gốc khởi nghĩa Tây Sơn và sự sụp đổ của họ Nguyễn ở Đàng Trong, còn các chiến dịch về sau của họ như tiến ra Đàng Ngoài để tiêu diệt luôn chúa Trịnh xin nói ở các bài sau.


Xem tiếp phần 2: Con Sói cô độc

Chi tiết

Thứ Hai, 11 tháng 1, 2016

Chuyện nàng Đặng Thị Huệ - người đàn bà khuynh đảo Đàng Ngoài

Đặng Thị Huệ

Nếu đã nói về Tống Thị rồi mà không nhắc đến Đặng Thị Huệ thì thật thiếu sót. Một nàng quậy banh Đàng Trong, một nàng phá nát Đàng Ngoài. Sở trường chung là biến mấy anh từ minh quân thành hôn quân vô đạo trong vài nốt nhạc. Đúng chuẩn cụm từ “nghiêng nước nghiêng thành” như mấy nàng Đắc Kỷ, Muội Hỷ, Bao Tự bên Tàu.

Đặng Thị Huệ sinh ra tại Gia Lâm (Hà Nội), cô bé nhà rất nghèo, hàng ngày phải hái chè để mưu sinh. Đó là lý do sau này người ta gọi là Bà Chúa Chè. Nàng xinh đẹp nên nhanh chóng được đưa vào phủ chúa. Ban đầu chỉ là nô tỳ vớ vẩn thôi. 

Một hôm Đặng Thị Huệ phải bưng khay hoa vào cho chúa Trịnh Sâm. Nàng nô tỳ mặt hoa mơn mởn, trang điểm nhẹ nhàng, mình liễu uyển chuyển, Trịnh Sâm trông thấy đã vội hỏi:

-Nàng tên gì?

-Dạ thưa, Đặng Thị Huệ.

Nói rồi, đôi mắt long lanh ướt át nhìn phớt vào cặp mắt chàng. Bốn mắt đưa lên, rồi bốn hàng mi lại rũ xuống, rồi lại bắt gặp nhau lần nữa, khiến cho chúa Trịnh ngẩn ngơ như chìm vào cõi mộng, y hệt bị thu hồn đoạt phách. Ôi cặp mắt ấy, đâu khác gì sóng nước hồ thu đưa thuyền tình. Trịnh Sâm đờ đẫn nắm lấy tay Đặng Thị Huệ kéo nàng vào lòng.

18+ 18+ 18+ (Đặng Thị Huệ với Tống Thị giống nhau ở chỗ rất pro 18+)

Trịnh Sâm trước đây vốn là một minh quân. Trong số 12 chúa Trịnh thì Trịnh Sâm nằm trong số những chúa “xịn”. Vừa hào hoa phong nhã, xuất khẩu thành thơ, từng đối đáp với đại văn hào Ngô Thì Sĩ. Và là vị chúa Trịnh đầu tiên dám dẫn quân vào tận xứ Đàng Trong đánh thẳng vào kinh thành Phú Xuân, khiến cả nhà chúa Nguyễn và cậu bé Nguyễn Ánh phải tháo chạy vào Sài Gòn. Nếu mà đừng chết yểu như Nguyễn Huệ thì Trịnh Sâm rất có thể sẽ là người thống nhất Việt Nam.

Nhưng mà đời đâu như mơ và tình đâu như thơ, Trịnh Sâm mê Đặng Thị Huệ đến quên hết mọi thứ. Một vị chúa tàn nhẫn, gian hùng như Trịnh Sâm mà hoàn toàn bị Đặng Thị Huệ dắt mũi. Đến mức khi vào Đàng Trong đánh quân Nguyễn, Trịnh Sâm có bắt được một viên ngọc dạ quang đẹp tuyệt vời. Chúa quý viên ngọc lắm nên thường cài nó trên khăn. Một lần Thị Huệ đưa tay cầm viên ngọc mân mê. Chúa mới sốt sắng: 

-Nàng nhẹ tay thôi, đừng làm trầy ngọc của ta.

Thị Huệ nghe vậy cầm viên ngọc ném ngay xuống đất rồi khóc lóc bảo:

-Chàng quý hòn ngọc ấy hơn thiếp hả? Bất quá thiếp vào Quảng Nam tìm hòn ngọc khác cho chàng. Cái đồ trọng của khinh người!

Nói rồi Thị bỏ về phòng và mấy ngày liền tránh mặt chúa. Chúa Trịnh xót của thì xót thật, não hết cả ruột gan luôn chứ không đùa. Nhưng vẫn phải mất bao công sức dỗ dành năn nỉ mới làm nàng vui lòng và chịu bỏ qua cho mình.

Thậm chí chúa không ngừng dùng tiền quốc gia, vắt óc nghĩ ra những thứ hay ho để chiều lòng Tuyên phi. Cứ đến dịp trung thu là chúa cho lấy gấm lụa trong kho ra làm đèn lồng. Gấm thượng hạng nha, không phải vải nhà quê đâu, mỗi cái có giá đến vài chục lạng vàng. Và dựng đến hàng trăm cây phù dung ven hồ Long Trì để treo đèn chỉ nhằm mục đích ghi điểm với Thị Huệ.

Một lần có một người Tây đem đến phủ chúa một lọ nước hoa rao bán với giá 10 xe ngọc. Cái giá rất cắt cổ, chúa Trịnh Sâm còn phải toát mồ hôi. Thị Huệ thích lắm nhưng chúa còn tiếc tiền, 10 xe ngọc chứ có phải 10 xe đá đâu??? Nàng dỗi, bèn phụng phịu bỏ ăn ba bữa làm Trịnh Sâm phải đồng ý mua mặc dù đắng hết cả lòng mề. Tội anh Sâm vãi, vớ phải con mẹ bánh bèo này đúng là quá đen, mà cũng tại ảnh dại gái quá.

Do chị được chúa yêu như thế nên em trai nàng là thằng đại dâm tặc Đặng Mậu Lân làm đủ chuyện khốn nạn mà vẫn không sao. Mậu Lân không ngán ai cả. Cái phủ của hắn ở Thăng Long to không kém phủ chúa, ăn uống thì cực kỳ kenny sang hoàng tộc. Trong nhà chứa cả trăm osin, cho đeo gươm. Mỗi khi hắn đi chơi là kéo nguyên băng đi cùng, uống rượu đánh nhau tưng bừng hoa lá mà lính gác đành bó tay. Đặc biệt Mậu Lân còn nuôi rất nhiều kiki, và hễ ra phố là bọn nó cũng được đi theo. Các kiki đều được mặc áo thêu, đeo chuông vàng, chạy lung tung ị đái khắp phố phường. Dân Hà Nội ngày đó cực ghét thằng trẻ trâu Mậu Lân.

Đặng Mậu Lân nổi tiếng khắp thành Thăng Long là một thằng mất dạy chuyên sàm sỡ con gái nhà lành, nhưng vì chị hắn là Tuyên phi nên mọi người bó tay. Có lần hắn dê một cô gái không được, liền cắt luôn vú cô ta, đồng thời tống cổ chồng cô vào tù luôn. Thậm chí con gái cưng của chúa Trịnh Sâm mà hắn cũng không tha.

-Cưng à, cho anh hun miếng.

Hắn đè cô bé xuống. Quan Sử nội giám lao vào can thì Mậu Lân nổi điên chém chết. Sau đó cắm thanh gươm trước cửa thách thức:

-Thằng nào vào tao đồ sát!

Nghe tin dữ, chúa phải sai người đem quân vây bắt Lân giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Các quan đều nói tội Lân đáng bêu đầu. Tuyên phi nghe tin khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa. Lân xếp dọn nhà cửa, mặc áo tù thủng thỉnh bước ra khỏi kinh, có sẵn thuyền để chở đi. Lân đem theo rất nhiều gái, tiếng đàn sáo véo von không dứt. Ra đến nơi chịu đày quan địa phương phải làm nhà cửa cho gã ở. Kinh chưa?

Tuyên phi Đặng Thị Huệ chiều em như thế thì đối với con trai còn thế nào nữa? Theo lẽ thì chúa Trịnh Sâm phải nhường ngôi cho con trưởng Trịnh Tông của Thái phi. Nhưng quá yêu Tuyên phi Đặng Thị Huệ mà chúa cãi lời mẹ mình để truyền ngôi cho Trịnh Cán (chúa Trịnh Sâm nổi tiếng có hiếu nhé).

Trịnh Sâm là một người cực kỳ khang kiện mà từ khi cặp với Đặng Thị Huệ thì càng lúc càng đuối, phang phập, rượu chè, mới 44 tuổi mà đã sức tàn lực kiệt rồi qua đời. Trịnh Sâm có nhiều cung tần vào loại nhất trong các chúa Trịnh, tầm 400 bà. Như thế thì đến trâu bò cũng chết chứ đừng nói người. Trịnh Cán lên thay, nhưng mà thằng cu này rất ốm yếu. Trước học sách giáo khoa có trích tác phẩm Thượng kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông, nói về việc vào phủ chúa Trịnh, chính là để chữa bệnh cho thằng nhóc Trịnh Cán này đây.

Trịnh Cán làm chúa được có 1 tháng thì đã bị phe ủng hộ Trịnh Tông đạp xuống. Tuyên phi Đặng Thị Huệ giờ mới khổ, chúa Trịnh Sâm chết rồi thì ai bảo vệ bà? Mẹ của Trịnh Tông là Thái phi vốn cay Tuyên phi từ vụ cướp ngôi con bà, giờ mới thỏa sức trả thù. 

-Thị Huệ, lạy ta nào!

Thái phi buộc Tuyên phi lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy, Thái phi sai hai a hoàn đứng hai bên nắm tóc Tuyên phi dập đầu xuống đất, nhưng bà vẫn kiên quyết không lạy là không lạy, cắn răng chẳng nói nửa lời. Thái phi điên máu quát:

-Đánh chết nó cho ta!

Đám a hoàn xúm lại đánh đập Tuyên phi túi bụi, phun nước miếng đầy mặt mũi bà. Tuyên phi bầm tím khắp người, vừa đau đớn vừa nhục nhã. Sau đó nàng bị bắt giam vào nhà Hộ Tăng ở vườn sau. Tại đây Đặng Thị Huệ bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở, y như cảnh hoàng hậu với Dung ma ma hành hạ Tiểu Yến Tử trong Hoàn Châu Cách Cách. Một bữa chịu không nổi, bà bỏ trốn, nhưng sắp lên được đò thì bị quân lính bắt lại.

Sau một thời gian bị biệt giam, Thị Huệ được cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu hạ lăng tẩm chúa Trịnh Sâm. Bà ngày đêm gào khóc:

-Chàng ơi cho thiếp theo với, sống thế này khổ không bằng chết! 

Đến ngày giỗ của chúa, Tuyên phi ngẩng mặt lên trời, bưng chén thuốc độc uống một hơi. Chiếc chén rơi xuống đất vỡ tan, bà ngã ra sau, máu tuôn xối xả từ miệng, hơi thở lịm dần rồi tắt hẳn. Tuyên phi Đặng Thị Huệ, người đàn bà khuynh đảo Đàng Ngoài một thời, người khiến chính quyền chúa Trịnh 200 năm lung lay nghiêm trọng, chỉ còn chờ vua Quang Trung đến đánh gục, đã qua đời trong hoàn cảnh cô đơn lạnh lẽo tột cùng. Bà được an táng cách mộ chồng một dặm.
Chi tiết

Chuyện về Tống Thị - "Đắc Kỷ" của Việt Nam

tống thị

Bữa giờ nói về đàn ông nhiều rồi, hôm nay mình sẽ đổi gió sang phụ nữ. :3

Có thể các bạn đã quá quen với Bà Trưng, Bà Triệu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Huyền Trân, Ngọc Hân… Nhưng chắc chưa bao giờ nghe đến Tống Thị, Đắc Kỷ của Việt Nam :3

Tống Thị là một đại mỹ nhân, da trắng như tuyết, môi đỏ như son, tóc đen như gỗ mun. Nói chung ngon từ thịt, ngọt từ xương, chay mặn đều dùng được. Ngày đó bao đấng quân vương nhìn nàng mà lau nước dãi không kịp. 

Tống Thị sinh vào thế kỷ 17, thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Nàng là chị dâu chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) ở Đàng Trong. Nhưng sau khi góa chồng thì nàng bắt đầu… tán chúa. Sở hữu nhan sắc kiều diễm, phục sức trang nhã, phong cách yểu điệu thục nữ. Trông thấy Tống Thị, nhiều người còn nói như thấy giáng tiên vừa đội trăng sao, vừa rẽ khói vén mây xuống hạ giới. Không chỉ đẹp, Tống Thị còn có tài đưa tình quyến rũ, duyên dáng hơn người và ăn nói như rót mật vào tai. Đặc biệt, nàng còn có một xâu chuỗi trăm hoa rất thơm, cua trai hết sảy. Chiếc vòng tỏa ra một mùi hương ma mị, chúa Thượng ngửi xong cảm thấy trong người vô cùng rạo rực và bức xúc. Việc cưa vị chúa Nguyễn đối với nàng dễ như lấy đồ trong túi.

Từ ngày đó chúa Thượng từ một người hiền lành nhân ái, luôn lo cho dân cho nước, trở thành một tên hôn quân bạo chúa, vô cùng độc ác, hoang dâm vô độ. Để chiều người yêu, chúa dự định cho xây một tòa lâu đài nguy nga để hưởng lạc cùng nàng. Chúa bắt trăm họ lấy đá quý, gỗ hiếm, tập trung nhân công và thợ giỏi để thực hiện việc xây dựng. Thuế má từ đó thêm nặng nề. Chưa kể hạn hạn với nạn đói càn quét mọi nơi, khổ không chịu được. Tiếng kêu than vang khắp Đàng Trong. Không một ai can nổi, ai can là bay đầu ngay lập tức. Trong vương phủ, những ai còn chút lương tâm đều oán ghét Tống Thị và run sợ cho nghiệp chúa...

Số người chết oan ức vì Tống Thị ngày càng nhiều, nhưng mọi lời ca thán đều bị bưng bít. Rồi một ngày, một viên quan bất chấp tính mạng đến gặp trực tiếp chúa Thượng:

-Chúa công xem đi, chỉ vì một mụ đàn bà mà chúa công đẩy con dân của mình vào đường cùng như vậy sao? Chúa Thượng khoan dung của ngày hôm qua đâu rồi?

Người ấy phân tích mọi thứ cho chúa nghe, rồi đưa gươm lên cổ sẵn sàng tự tử. Chúa Thượng bừng tỉnh:

-Ta… ta sai rồi, cám ơn khanh đã nhắc. Ta có lỗi với thần dân của mình.

Chúa lập tức đi ngay ra công trường dẹp bỏ việc xây cất. Sau hôm đó cũng tránh mặt Tống Thị hẳn. Đang được sủng ái tự nhiên bị bồ “đá”, Tống Thị cay cú lắm, nàng quyết định trả thù. Nàng sẽ làm sao cho cả xứ Đàng Trong lẫn cơ nghiệp họ Nguyễn phải bị hủy diệt mới hả dạ! Và nàng làm điều ấy thế nào? Họ Trịnh.

Tống Thị đã viết một mật thư kèm theo xâu chuỗi trăm hoa, nhờ người dâng lên tận tay chúa Trịnh Tráng:

-Thiếp là Tống Thị. Nay có thư này muốn báo với đức chúa rằng Đàng Trong đang có biến, chúa hãy dẫn quân vào đánh ngay đi. Bây giờ là lúc thích hợp nhất. Thiếp sẵn sàng bỏ tiền túi ra tài trợ cho chương trình này luôn. Chơi láng đi. Khi thành công thiếp sẽ ra Đàng Ngoài hầu hạ người.

Chúa Trịnh đọc xong thư, cầm vòng hoa lên ngửi. Lập tức mắt chúa mơ màng như vừa hút cần:

-Phê quá...

Càng nhìn nét chữ càng mơ tưởng đến mỹ nhân nơi phương trời xa xôi đó. Lòng chúa Trịnh tràn ngập yêu thương và nhớ nhung như một chàng trai tuổi teen lần đầu biết yêu. Tới khi nhớ quá nhịn hết nổi, chúa Trịnh gấp rút tổ chức cuộc chinh phạt Đàng Trong để lấy điểm với Tống Thị.

Trịnh Tráng khởi binh, nhưng Nguyễn Phúc Lan đâu phải dạng vừa. Sau khi hết phê thuốc, chúa Nguyễn lập tức đẹp trai như xưa. Chúa sai Nguyễn Phúc Tần dẫn đoàn voi hùng dũng 100 con ra đối đầu. Quân chúa Trịnh bị đánh cho một trận nhớ mẹ, phải rút về lại bắc. Trịnh Tráng vỡ mộng gặp người đẹp.

Tống Thị chửi thề:

-@#-%*-%-, lần thứ hai rồi đó nha!

Quyết tâm quá tam ba bận mới đầu hàng. Nàng chuyển con mồi sang em ruột chúa Thượng là chúa Trung. Vì nàng nghĩ ông này mới đủ sức để thực hiện điều đó. Bởi vì lúc này chúa Thượng đã chết, cậu trai Nguyễn Phúc Tần trẻ tuổi ở trên nối ngôi.

Chúa Trung là người hung dữ, ban đầu thấy vì Tống Thị mà anh mình thành ra như thế nên cực kỳ căm ghét nàng, chỉ muốn xé xác phanh thây. Thế nhưng ngay khi vừa ngửi chiếc vòng hoa thì ông này cũng đờ đẫn, thứ bùa yêu này quả thật lợi hại. Sau đó là cảnh nóng xảy ra. 

Bà có một kỹ thuật 18+ siêu đẳng gọi là “tía rụng hồng rơi”. Nhờ thế mà từ khinh bỉ, chúa Trung trở nên cực kỳ ghiền Tống Thị. Bấy giờ Tống Thị mới xúi Trung tiếp tục liên hệ với chúa Trịnh để đánh Đàng Trong lần nữa. Sự việc bại lộ, kết cuộc của Tống Thị là bị xử trảm và bêu đầu ngoài chợ vì tội phản quốc.

"Gái đẹp quả có mãnh lực vô biên, làm lung lạc cả đấng quân vương", nhiều sử gia bình luận. Ngày xưa Dương Quý Phi mê ăn vải, Đường Minh Hoàng thậm chí phải cho người chạy sang tận Việt Nam lấy vải gấp về cho nàng ăn. Ăn nhiều quá nên bị nhiệt miệng, Dương Quý Phi khóc rưng rức vì đau. Đó cũng là lý do vải còn có tên khác là quả Lệ Chi. Đường Minh Hoàng thấy cute quá lại càng mê mệt, càng ngày ông càng lầy, và nhà Đường càng lúc càng nát. 

Trở lại, dâm dâm cô nương Tống Thị bất chấp luân thường đạo lý làm bao nhiêu việc ác nên kết cục vậy cũng đáng. Người đàn bà từng chọc trời khuấy nước khuynh đảo cả lịch sử hai Đàng đó có một khối tài sản khổng lồ. Nhờ ăn hối lộ và bóc lột nhân dân mà Tống Thị tiền bạc như nước, vàng bạc châu báu chất đầy rương hòm, ruộng đất cò bay thẳng cánh. Chúa đã max giàu, mà bà giàu chỉ có thua có mỗi chúa thôi. Cuộc đời bà này viết fic cũng hay lắm. Đấy, thời Trịnh Nguyễn hấp dẫn quá trời, chỉ là không được dạy kỹ thôi.
Chi tiết

Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

Phủ chúa Trịnh "hoành tráng" như thế nào?

phủ chúa Trịnh

Khi ấy nhà Lê lầy quá rồi, Trịnh Kiểm rất muốn cướp ngôi. Nếu ổng làm thật thì rất có thể lịch sử Việt Nam đã ghi tên vương triều nhà Trịnh. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lập tức bật dậy can ngăn, nhanh như phút 89 đội nhà bị dẫn bàn trước mà cụ được vào sân thay người: 

-Vị huynh đệ xin hãy dừng tay, lão phu có đôi điều muốn nói.

Rồi phán câu sấm:

-Thờ Phật, giữ chùa thì ăn oản. Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.

Có nghĩa là phò tá vua Lê, giữ vững vương triều nhà Lê thì không những được mang cái tiếng trung thần, mà lại còn sống sung sướng. Trịnh Kiểm nghe xong tâm tư lắm nhưng rồi cũng làm theo. Nhờ vậy mà tránh được vết xe đổ sau khi cướp ngôi nhà Trần của Hồ Quý Ly.

Kế đó Nguyễn Hoàng thấy anh ruột bị Trịnh Kiểm giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói:

-Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.
(Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được)

Thế là Nguyễn Hoàng vào nam trở thành chúa Nguyễn. Rồi khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến hỏi ông nên làm gì đây. Ông đáp: 

-Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế.
(Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời).

Thế là cục diện thiên hạ chia ba hình thành, Mạc ở trên, Trịnh ở giữa, Nguyễn ở dưới. Không kém thời tam quốc bên Tàu. Mình trộm nghĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm có số làm vua, mẹ cụ cũng muốn cụ lên ngôi hoàng đế nhưng chẳng được. Có lẽ vì vậy mà cụ nghịch cho thiên hạ đại loạn để đỡ bực mình chăng? =))

Nếu quả đúng như vậy thì chiếu theo điều 281 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

-Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.

Gần 300 năm đất nước bị chia cắt cùng hàng triệu người chết thì đủ nghiêm trọng chưa nhỉ? =)) Mà đùa tí cho vui thôi, chứ chắc cụ không có ý đó. Cụ Khiêm vẫn là nhà tiên tri số 1 trong lịch sử Việt Nam.

Trở lại với nhà Trịnh, thì lúc bấy giờ đẻ ra một hệ thống chính trị quái đản chưa từng có trong lịch sử Việt Nam là vừa có vua mà lại vừa có chúa. Cái này khá giống mô hình Mạc phủ bên xứ Đôrêmon, vua Lê chỉ là hình ảnh đại diện cho thương hiệu công ty, còn quyền lực nằm trong tay ông bầu Trịnh đứng đằng sau chỉ đạo.

Trịnh Kiểm mất thì con là Trịnh Tùng MTP lên thay. Tùng không còn là Tùng của ngày hôm qua nữa, liên tục lạm dụng quyền lực lộ liễu. Thậm chí xin vua cho làm vương mà vua cũng cho (vì không cho coi chừng tao à nha). Trịnh Tùng cho xây phủ chúa để sinh sống và làm việc. Bạn coi phim Tàu sẽ thấy cảnh vua chơi bịt mắt bắt dê với phi tần trong cung, “hoàng thượng mau tới bắt ta nha, hoàng thượng”. Thì chắc vua Lê khi đó cũng chẳng khác gì, rảnh rỗi quá mà. Mọi công việc của đất nước đều được đưa vào phủ cho chúa xử lý. Đúng kiểu em chỉ việc vui chơi thôi, còn cả thế giới cứ để anh lo.

Nói về phủ chúa Trịnh hay Soái phủ, tâm điểm của bài viết này. Thì nó là một tòa thành bằng gạch với hệ thống cung điện cực kỳ đồ sộ, chắc là công trình vĩ đại nhất mà Việt Nam từng thi công, chỉ sau Cửu Trùng Đài. Xây tới 1 thế kỷ rưỡi với mấy đời chúa cơ mà. Nó nằm ở trung tâm Hà Nội bây giờ, chỉ tính riêng cái khu nội phủ chứ chưa tính khuôn viên và các cổng bên ngoài nhé, là bao gồm khu bệnh viện Việt Đức, qua phố Tràng Thi, Thư viện quốc gia, Tòa án nhân dân tối cao, phố Hỏa Lò tới giáp phố Thợ Nhuộm. Mấy chỗ này bữa mình đi bộ đã thấy to phết.

Xung quanh phủ và ven các hồ lân cận thì các chúa cho xây dựng khá nhiều thứ như đình Tả Vọng trên nền Tháp Rùa ngày nay. Xây cung điện Khánh Thụy. Đắp núi Ngọc Bội để tôn vinh các chiến công ở bờ phía Tây hồ. Đặc biệt nhất là kỳ quan Ngũ Long Lâu mang hình 5 con rồng. Lầu này rất cao được dát bằng mảnh sứ và có đá cẩm thạch quấn quanh. 

Hồi đó Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác có may mắn được mời vào phủ chúa để chữa bệnh cho Trịnh Cán. Ông vốn là người sống kín đáo, không thích check in, nhưng khi vào phủ chúa nhìn ngắm một lúc cũng thấy khoái quá. Thế là một tay thì bắt mạch cho Trịnh Cán, tay kia đăng tải một dòng trạng thái lên trang cá nhân để khoe ngay lập tức:

“Doctor Trac Đi tới cổng phủ, quan truyền mệnh dẫn qua hai lần cửa nữa rồi rẽ về phía trái. Tôi ngẩng đầu nhìn, thấy bốn bề tám phía chỗ nào cũng có cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, trăm hoa đua nở, gió thoảng hương trời. Hành lang, lan can quanh co, tiếp nối song song. Người giữ cửa truyền báo lệnh công đi lại tíu tít như mắc cửi. Vệ sĩ canh gác cửa cung, ra vào phải có phù hiệu…

Vòng quanh ước chừng một dặm, nơi nào cũng lầu đài, đình, gác, rèm châu cửa ngọc, ánh nước mây lồng, suốt lối toàn hoa cỏ kỳ lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc ngang lạch nước quanh co, lại có lan can toàn bằng đá màu. Tôi vừa đi vừa ngắm, thực chẳng khác gì cõi tiên vậy.
Like Comment Share
Just Now”

Danh sĩ Nguyễn Án cũng không thể hoãn cái sự sung sướng đó lại khi ông có mặt tại phủ chúa ngay trong đêm lễ hội. Đâu phải dân đen nào cũng được phép vào một nơi sang chảnh như này trong một dịp như này? Tao phải cho bọn bên ngoài ăn bánh gato đến chết. Ông up ảnh rồi tag bạn bè vào điên cuồng:

“An Nguyen Mỗi năm đến tết Trung thu, từ trước mấy tháng, chúa phát gấm trong cung ra để làm hàng trăm, hàng nghìn cái đèn lồng, cái nào cũng tinh xảo tuyệt vời, mỗi cái giá đến mấy chục lạng vàng. Đến ngày chúa ngự ra chơi Bắc cung, cung có cái ao gọi là Long Trì rộng nửa dặm. Trong ao trồng rất nhiều hoa sen, hoa súng. Ven ao đắp đất trồng đá làm núi, chỗ cao chỗ thấp, dàn đặt có hình thế. Có những chỗ khuỷu để cho nhạc công ngồi đàn sáo. Bờ ao trồng hàng mấy trăm cây phù dung, treo đèn ở trên. Sóng trăng rập rờn, trông xa tựa hàng vạn ngôi sao sáng…
Like Comment Share
5 minutes ago

150 likes

Comment 1 Chà ông sướng quá, up nhiều ảnh lên nhé.

Comment 2 Anh em report chết mẹ nó đi.

Comment 3 Muốn vào phủ thì mua vé ở đâu vậy Án huynh? Đi đông có giảm giá không?"

Nói chung Việt Nam mình không phải là không có kỳ quan nhân tạo, có điều mấy ổng đốt hết rồi hihi. Như Lê Chiêu Thống suýt bị Trịnh Bồng cướp ngôi, giận quá bèn đốt luôn phủ chúa. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy trong mười ngày liền. Thời đó đâu có xe cứu hỏa nên bó tay rồi. Làm mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của Hà Nội và di sản văn hóa thế giới, uổng dễ sợ. Btw, fuck you Lê Chiêu Thống.

P/s: Ai sáng tạo thì lấy đây làm bối cảnh để viết một câu chuyện tình. Chàng là Trịnh Romeo, nàng là Nguyễn Juliet. Hai người yêu nhau mà gia tộc ghét nhau nên vô vàn cách trở. Một hôm chúa Trịnh cho Hoàng Ngũ Phúc đem quân đánh Phú Xuân kinh đô chúa Nguyễn. Chàng giật mình, ban đêm lẻn ra khỏi phủ phi ngựa vượt sông Gianh vào nam để cứu nàng.
Chi tiết

Về tác giả

Các bài viết trong blog của tác giả Phạm Vĩnh Lộc, một người yêu thích lịch sử Việt Nam.

Follow The Author

© Copyright 2016 by Phạm Vĩnh Lộc